Tượng đài Chiến thắng Ngã ba Đồng Lộc
1. Chiến trường Đồng Lộc và chiến thắng của quân, dân ta
Ngã ba Đồng Lộc thuộc xã Đồng Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh có vị trí quan trọng trong mạng lưới giao thông chiến lược Bắc - Nam qua địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, là nơi giao điểm của đường 15 và các đường liên tỉnh. Từ đây có thể mở rộng các hướng, phục vụ tốt cho nhu cầu giao thông vận tải khi các tuyến giao thông ở đồng bằng bị cắt đứt. Đây cũng là nơi có địa hình phức tạp và hiểm yếu. Toàn bộ khu vực Ngã ba Đồng Lộc nằm trên một khu đồi hẹp, thuộc phạm vi các xã: Đồng Lộc, Trung Lộc, Xuân Lộc, Mỹ Lộc, Thượng Lộc của huyện Can Lộc. Địa hình trống trải, một bên là đồi trọc, một bên là ruộng nước sình lầy, mùa khô đường bụi đỏ, mùa mưa nước đọng, khi bị địch đánh phá khắc phục rất khó khăn.
Nhận rõ vị trí quan trọng của Đồng Lộc, ngay sau khi đánh sập tất cả các cầu trên đường 1A, làm cắt đứt hoàn toàn 157m của tuyến đường này, kẻ thù tiếp tục đánh phá đường 15A (Lạc Thiện - Đồng Lộc - Khe Giao - Hương Khê - Quảng Bình và từ Lạc Thiện - Đồng Lộc - Khe Giao rồi theo đường 21, 22 vào Quảng Bình), trọng điêm là từ cống 19 (Phú Lộc) đến Khe Giao. Từ tháng 4 đến tháng 10 năm 1968, chúng đã đánh vào Ngã ba Đồng Lộc 1.863 lần, ném gần 50.000 quả bom các loại, chưa kể rốc két và đạn 20 mm. Bình quân mỗi tháng chúng đánh 28 ngày, ngày đánh nhiều nhất 103 lần bay với trên 800 qủa bom các loại.
Suốt ngày đêm không lúc nào Đồng Lộc ngớt tiếng bom đạn. Đất đá bị đào đi xới lại nhiều lần, hố bom chồng chất hố bom. Cùng một lúc chúng ném các loại bom đào, bom phá, bom bi, bom nổ chậm, bom từ trường... Ban ngày, chúng tập trung đánh chặn các lối ra vào. Ban đêm, chúng thả pháo sáng, ném bom bi, bắn đạn rốc két, đạn 20mm nhằm vào các lực lượng ứng cứu giao thông của ta. Kẻ thù muốn biến Ngã ba Đồng Lộc thành điểm chết, hoang tàn không cho người và xe qua lại.
Trước tình hình đó, không còn lựa chọn nào khác là phải giữ huyết mạch giao thông tuyến Ỉ5A (Lạc Thiện - Khe Giao) thông suốt, vì nếu tuyến đường này bị cắt đứt thì việc chi viện, tiếp tế cho tiền tuyến gặp rất nhiều khó khăn, phải đi theo đường 8 lên Lào vào đường 13 (Lào).
Tỉnh ủy, Ủy ban hành chính tỉnh Hà Tĩnh tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các ngành, các địa phương huy động lực lượng dồn sức cho Đồng Lộc để giải tỏa điểm chốt, giữ vững mạch máu giao thông. Ban đảm bảo giao thông Trung ương và tỉnh quyết định điều động toàn bộ lực lượng thanh niên xung phong(TNXP) N55 - PI8 gồm 7 đại đội vào trấn giữ tại 7 vùng chủ yếu: Đại đội 551 được điều từ La Khê về Khe Giao; Đại đội 552 được điều tù’ đường 28 về Xuân Lộc; Đại đội 553 được điều về Eo út; Đại đội 554 được điều từ Khe Ác về Mỹ Lộc; Đại đội 555 được điều về Nhân Lộc và Phú Lộc; Đại đội 556 được điều từ Bãi Dịa (Mỹ Lộc) về Đồng Liên, Đồng Lộc; Đại đội 557 được điều từ Linh Cảm về Đồng Lộc.
Tổng số cán bộ chiến sỹ TNXP N55 thường xuyên xấp xỉ 1.200 người. Ngoài ra, lực lượng chiến đấu còn bao gồm: Trung đoàn pháo cao xạ 210, tiểu đoàn 8 pháo cao xạ địa phương, một bộ phận của tiểu đoàn 30 công binh quân khu IV, đại đội chủ lực cầu, đại đội 2 chủ lực giao thông huyện Can Lộc, tiểu đội cảnh sát giao thông Hà Tĩnh, Viện kỹ thuật Bộ Giao thông vận tải, đội xe cơ giới Ty Giao thông vận tải Hà Tĩnh, tiểu đoàn 57 Công binh Hà Tĩnh (D57), tiểu đoàn 94 - Sư đoàn 350 quân khu III (D94), các đơn vị Thanh niên xung phong và Nhân dân địa phương. Các tổ quan sát, đếm bom, cắt tiêu, tổ rà phá bom mìn, bộ phận ứng cứu đường cùng với mạng lưới thông tin liên lạc, lực lượng điều hành phương tiện giao thông, giữ gìn trật tự an ninh khu vực Ngã ba Đồng Lộc được hình thành.
Ước tính, mỗi mét vuông ở Ngã ba Đồng Lộc phải gánh chịu ít nhât 3 quả bom tân. Nhưng bên địch quyết phá thì bên ta quyết giữ, chúng ta đã tập trung mọi nguồn lực quyết giữ cho bằng được đường 15A.
Tại chiến trường Đồng Lộc, trong tháng 5/1968, các lực lượng của ta đã bắn rơi 14 máy bay Mỹ; trong tháng 7 năm 1968, ta đã phá 1.780 quả bom, góp 974.240 ngày công để thông tuyến, làm đường mới từ Khiêm ích, Truông Kén, Bãi Dịa 6 km. Quân và dân các xã thuộc địa bàn huyện Can Lộc đã góp 185.400 ngày công với 42.620 người phục vụ chiến đấu, đào đắp 95.209m 3 đất đá, vận chuyển 45m 3 gỗ, cung cấp 22.448 cọc tre, 24.000 gánh bổi chống lầy. Trong suốt 300 ngày đêm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh, hơn 16.000 người thuộc các lực lượng đã đối mặt, bám trụ chiến đấu kiên cường để nối mạch, thông đường với tiền tuyến.
Cuộc chiến đấu trên mặt trận giao thông vận tải càng ngày càng quyết liệt, giặc Mỹ dùng mọi biện pháp, thủ đoạn, tập trung đánh phá hòng cắt đứt đường vận chuyển tiếp tế từ hậu phương ra tiền tuyến. Nhưng mọi âm mưu và thủ đoạn của địch đều bị thất bại. Nhân dân Hà Tĩnh, với quyết tâm sắt đá “đường chưa thông không tiếc xương tiếc máu” và tinh thần “địch phá một ta làm mười”, đã ngày... đêm chịu đựng mọi gian khổ, hy sinh bảo toàn cho những tuyến đường.
Để mở những con đường mới, đường tránh, Nhân dân nhiều địa phương như các xã Thiên Lộc, Tiến Lộc (Can Lộc), cẩm Quan (Cẩm Xuyên)... đã tạm dời làng xóm, nhà cửa đi nơi khác để lấy đất làm đường. Đe tránh đoạn đường số 1 đã bị bom địch đánh phá hỏng, Nhân dân xóm Hạ Lội (Tiến Lộc - Can Lộc) đã tự nguyện dờ 130 ngôi nhà để lát đường cho xe ra tiền tuyến. Nhân dân huyện Kỳ Anh với ý chí quyết tâm không để một chiếc xe bị tắc trên địa phương mình, đã làm thêm hàng chục con đường xế, đường tránh...
Trong cuộc chiến đấu quyết liệt đầy khó khăn và vô cùng dũng cảm này, tất cả các lực lượng đã chiến đấu kiên cường, mưu trí sáng tạo trong đánh địch, rà phá bom mìn, sửa chữa đường, kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam. Đồng Lộc đã trở thành đỉnh cao của cuộc chiến tranh Nhân dân, là sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng trực tiếp tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Có 465 cán bộ, chiến sỹ thuộc lực lượng TNXP, giao thông vận tải, lực lượng dân quân tự vệ, nhân dân Đồng Lộc và đơn vị Pháo cao xạ 210 đã anh dững hy sinh để giữ vững mạch máu giao thông thông suốt, góp phần quyết định chiến thắng trên chiến trường miền Nam, bẻ gãy ý chí xâm lược của kẻ thù.
Trong đó, TNXP là lực lượng chủ công, đội quân xung kích, đảm nhận những nhiệm vụ khó khăn, gian khổ và đầy nguy hiểm với nhiệm vụ chính là lấp hố bom, bắc cẩu, làm hầm, làm đưòng vòng, đường tránh qua Ngã ba Đồng Lộc để đảm bảo cho Đồng Lộc không lúc nào tắc xe. Tiêu biểu như: Tiểu đội nữ thanh niên xung phong thuộc Đại đội 552, Đội 55 “sống bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm” đã hy sinh trọn vẹn cả tuổi thanh xuân của mình cho sự sống của dân tộc... Địa danh Ngã ba Đồng Lộc cũng gắn liền với tên tuồi của các Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, tiêu biểu như các anh hùng La Thị Tám, Nguyễn Trí Ân, Nguyễn Tiến Tuẩn, Vương Đình Nhỏ, Uông Xuân Lý, liệt sỹ Võ Triều Chung, Nguyễn Xuân Lứ...
Tặng quà cho Bà mẹ Việt Nam anh hùng và Cựu TNXP Ảnh: Phạm Tuấn
Trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất 1965 -1968, với sự đóng góp vô cùng to lớn về sức người, sức của của Nhân dân, trong đó tại Ngã ba Đồng Lộc (từ năm 1964 - 1972), đã có 1.226 người dân các xã vùng lân cận thuộc huyện Can Lộc và 8 em học sinh đã bị bom đạn kẻ thù sát hại. Sự hy sinh anh dũng của họ đã góp phần làm nên chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta tại chiến trường Đồng Lộc. Hà Tĩnh được công nhận là lá cờ đầu miền Bắc về bảo đảm giao thông vận tải và vinh dự được nhận phần thưởng cao quý Huân chương Độc lập hạng Nhì của Quốc hội, Chính phủ và Hồ Chủ tịch trao tặng.
2. Sự hy sinh của 10 Nữ Thanh niên xung phong
Khu vực thung lũng Ngã ba Đồng Lộc rộng chưa đầy 50 ha bị bom đạn của kẻ thù quần nát, xới tung. Nơi đây, hàng ngàn bộ đội, TNXP, công nhân giao thông, lái xe, chiến sỹ công an, dân công, dân quân du kích,... đã gửi lại tuổi thanh xuân của mình để thông đường, thông xe ra tiền tuyến, góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và làm nên huyền thoại về Ngã ba Đồng Lộc.
Vào lục 16h ngày 24/7/1968, Tiểu đội 4 được lệnh ra trọng điểm ở khu vực địch vừa thả bom để san lấp hố bom, sửa đường, củng cố hầm trú ẩn, khơi sâu rãnh thoát nước ở đoạn đường độc đạo cách Ngã ba Đồng Lộc vào phía Nam khoảng hơn 300 m. Tốp 10 cô gái ra đến hiện trường, nhanh chóng triển khai công việc, các chị làm không ngơi tay. Bỗng một tốp máy bay phản lực từ hướng Bắc vào Nam vượt qua trọng điểm. Khi máy bay đi qua, các cô tiếp tục làm việc. Bất ngờ tốp máy bay phản lực quay lại thả một loạt bom trúng đội hình 10 cô gái. Sau loạt bom tàn khốc của kẻ thù, cả 10 cô gái trẻ đã hy sinh kiên cường dũng cảm khi tuổi đời còn rất trẻ: Võ Thị Tần (24 tuổi); Hồ Thị Cúc (24 tuổi); Nguyễn Thị Nhỏ (24 tuổi), Dương Thị Xuân (21 tuổi), Võ Thị Hợi (20 tuổi), Nguyễn Thị Xuân (20 tuổi), Hà Thị Xanh (20 tuổi), Trần Thị Hường (19 tuổi), Trần Thị Rạng (18 tuổi), Võ Thị Hà (17 tuổi).
Để khắc sâu chiến tích anh hùng vẻ vang đó, ngày 7/6/1972, Quốc hội và Chính phủ đã truy tặng danh hiệu “Anh hùng Lao động” cho 10 liệt sỹ TNXP hy sinh tại chiến trường Ngã ba Đồng Lộc.
3. Ý nghĩa của Chiến thắng Đồng Lộc
50 năm đã trôi qua, nhưng ý nghĩa của Chiến thắng Đồng Lộc vẫn còn vẹn nguyên giá trị: Đó là biểu tượng sáng ngời về ý chí và sức mạnh quật cường của quân và dân ta, thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, tài mưu lược trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh của Đảng ta: nghệ thuật tổ chức, bố trí và sử dụng lực lượng “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”..., lấy ý chí, trí tuệ của con người Việt Nam để chiến thắng vũ khí và trí tuệ của bộ máy điều hành chiến tranh của Mỹ.
Chiến thắng Đồng Lộc khẳng định ý chí kiên cường bất khuất, bằng sức mạnh tổng họp của chiến tranh Nhân dân, chiến đấu dũng cảm mưu lược đã giữ vững mạch máu giao thông chi viện cho tiền tuyến lớn, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Chiến thắng Đồng Lộc mãi mãi là niềm tự hào của Nhân dân ta và Nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Những chiến sỹ dũng cảm hy sinh tại Ngã ba Đồng Lộc là biểu tượng thiêng liêng, cao quý của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Những tấm gương nghĩa liệt đó không chỉ trong cuộc chiến tranh ái quốc mà còn sáng mãi muôn đời để Nhân dân ta, nhất là thế hệ trẻ noi theo.
Chiến thắng Đồng Lộc là tiếp nối truyền thống yêu nước, cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân Hà Tĩnh; khẳng định chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phới phới dậy tương lai” của dân tộc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Thêm nhận xét mới