Về việc công bố công khai thực hiện dự toán thu, chi ngân sách huyện 6 tháng năm 2024   |    Kế hoạch Tuyển dụng công chức cấp xã năm 2024   |    Quyết định Về việc phê duyệt chỉ tiêu tuyển dụng công chức cấp xã năm 2024   |    Thông báo tuyển dụng công chức cấp xã năm 2024   |    Công điện về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng cháy, chữa cháy rừng   |   

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CÁC LUẬT CÓ HIỆU LỰC THI HÀNH KỂ TỪ NGÀY 01/01/2021

  

17:11 05/01/2021

MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA CÁC LUẬT

CÓ HIỆU LỰC THI HÀNH KỂ TỪ NGÀY 01/01/2021

Từ ngày 01/01/2021, nhiều Luật, Bộ luật có hiệu lực thi hành, với nhiều nội dung quan trọng, cụ thể như sau:

I. Bộ luật Lao động (sửa đổi)

Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2019 có hiệu lực từ ngày 01/01/2021 và sẽ thay thế cho Bộ luật Lao động 2012 hiện hành. Dưới đây là những điểm mới đáng chú ý nhất của Bộ luật này.

1. Mở rộng phạm vi và đối tượng điều chỉnh

Nếu như Bộ luật Lao động 2012 quy định tiêu chuẩn lao động; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của người lao động, người sử dụng lao động... trong quan hệ lao động và các quan hệ khác liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động thì Bộ luật Lao động 2019 mở rộng thêm đối tượng là người làm việc không có quan hệ lao động cùng một số tiêu chuẩn riêng.

2. Tăng tuổi nghỉ hưu lên 62 tuổi với nam, 60 tuổi với nữ

Điều 169 Bộ luật Lao động mới nêu rõ:

Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.

Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với nam; đủ 55 tuổi 04 tháng đối với nữ. Sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 03 tháng với lao động nam; 04 tháng với lao động nữ.

Riêng người bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hay làm việc ở nơi có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thì có thể nghỉ hưu trước không quá 05 tuổi.

So với hiện nay theo Bộ luật Lao động 2012 thì tuổi nghỉ hưu của người lao động đã tăng lên đáng kể; đồng thời, với những công việc đặc thù thì việc nghỉ hưu trước tuổi cũng được quy định ràng hơn.

3. Quốc khánh được nghỉ 2 ngày

Bên cạnh việc tăng tuổi nghỉ hưu, đáng chú ý, Điều 112 Bộ luật Lao động sửa đổi còn bổ sung thêm 01 ngày nghỉ trong năm vào ngày liền kề với ngày Quốc khánh, có thể là 01/9 hoặc 03/9 Dương lịch tùy theo từng năm.

Và như vậy, tổng số ngày nghỉ lễ, tết hàng năm sẽ nâng lên 11 ngày, trong đó: Tết Dương lịch: 01 ngày; Tết Âm lịch: 05 ngày; Ngày Chiến thắng (30/4 Dương lịch): 01 ngày; Ngày Quốc tế lao động (01/5 Dương lịch): 01 ngày; Ngày Quốc khánh: 02 ngày; Ngày Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 Âm lịch): 01 ngày.

Trong những ngày này, người lao động được nghỉ làm việc và hưởng nguyên lương.

4. Không còn hợp đồng lao động theo mùa vụ

Điều 20 Bộ luật Lao động sửa đổi đã bỏ nội dung về hợp đồng mùa vụ hoặc theo một công việc có thời hạn dưới 12 tháng, thay vào đó chỉ còn 02 loại hợp đồng là: hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng lao động xác định thời hạn.

Quy định này được đánh giá là tiến bộ lớn của pháp luật lao động nhằm bảo vệ người lao động, hạn chế tình trạng người sử dụng lao động "lách luật", không đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động bằng cách ký các loại hợp đồng mùa vụ, dịch vụ...

5. Ghi nhận hình thức hợp đồng lao động điện tử

Xuất phát từ thực tiễn, với sự phát triển của khoa học công nghệ thì việc giao kết hợp đồng lao động không đơn thuần chỉ bằng văn bản, lời nói hay hành vi. Chính vì vậy, Điều 14 Bộ luật Lao động mới đã ghi nhận thêm hình thức giao kết hợp đồng lao động thông qua phương tiện điện tử có giá trị như hợp đồng lao động bằng văn bản .

Ngoài ra, với những trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì vẫn được coi là hợp đồng lao động .

6. Được ký hợp đồng xác định thời hạn nhiều lần với người cao tuổi

Thông thường, người cao tuổi thường là những người có nhiều năm làm việc với nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là những công việc yêu cầu trình độ cao. Do đó, để phát huy giá trị của người cao tuổi, Điều 149 Bộ luật Lao động cho phép người sử dụng lao động thỏa thuận giao kết nhiều lần hợp đồng lao động xác định thời hạn với người cao tuổi thay vì kéo dài thời hạn hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới như trước đây.

7. Tăng thời giờ làm thêm theo tháng lên 40 giờ

Về thời giờ làm việc, trước mắt giữ nguyên thời giờ làm việc bình thường như quy định của Bộ luật hiện hành và có lộ trình điều chỉnh giảm giờ làm việc bình thường vào thời điểm thích hợp.

Về thời giờ làm thêm, mặc dù trước đó rất nhiều phương án được đưa ra, tuy nhiên, tại Điều 107 Bộ luật Lao động 2019, Quốc hội đã quyết định không tăng thời giờ làm thêm giờ trong năm.

Bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 01 ngày; nếu áp dụng thời giờ làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ/ngày; không quá 40 giờ/tháng; không quá 200 giờ/năm, trừ một số trường hợp đặc biệt được làm thêm không quá 300 giờ/năm.

Điều khác biệt duy nhất về thời gian làm thêm giờ quy định tại Bộ luật Lao động 2019 với Bộ luật Lao động 2012 ở điểm:

Số giờ làm thêm trong tháng tăng lên 40 giờ thay vì 30 giờ và cụ thể hơn các trường hợp được làm thêm tới 300 giờ/năm như sản xuất, gia công xuất khẩu sản phẩm là hàng dệt, may, da, giày, linh kiện điện, điện tử, chế biến nông, lâm, thủy sản; cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu; cấp, thoát nước…

8. Thêm trường hợp nghỉ việc riêng hưởng nguyên lương

Ngoài các trường hợp nghỉ việc riêng hưởng nguyên lương như trước đây (bản thân kết hôn: nghỉ 03 ngày; con kết hôn: nghỉ 01 ngày; Bố/mẹ đẻ, bố/mẹ vợ hoặc bố/mẹ chồng chết: nghỉ 03 ngày...) thì Điều 115 Bộ luật Lao động mới đã bổ sung thêm trường hợp cha nuôi, mẹ nuôi chết.

Lúc này, người lao động cũng được nghỉ 03 ngày như trường hợp bố đẻ, mẹ đẻ hay bố/mẹ chồng, bố/mẹ vợ chết.

9. Người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do

Nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập từ việc áp dụng các trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng của người lao động, Điều 35 Bộ luật Lao động 2019 cho phép người lao động được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng không cần lý do mà chỉ cần báo trước 30 ngày với hợp đồng xác định thời hạn và 45 ngày với hợp đồng không xác định thời hạn.

Thậm chí, trong một số trường hợp, người lao động còn được đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không cần báo trước, như:

- Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận;\

- Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn;

- Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động;

- Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;

- Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc;

- Đủ tuổi nghỉ hưu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;

- Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.

Đồng thời, người lao động cũng được quyền yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp bản sao các tài liệu liên quan đến quá trình làm việc của mình khi chấm dứt hợp đồng lao động; các chi phí của việc cung cấp do người sử dụng lao động chi trả...

10. Có thể ủy quyền cho người khác nhận lương

Bộ luật mới quy định:

Trường hợp người lao động không thể nhận lương trực tiếp thì người sử dụng lao động có thể trả lương cho người được người lao động ủy quyền hợp pháp.

Trước đó nội dung này không được quy định tại Bộ luật Lao động 2012. Việc cho phép người lao động ủy quyền cho người khác nhận lương được cho là hợp lý, nhất là trong trường hợp người lao động bị ốm đau, tai nạn không thể trực tiếp nhận lương…

11. Khi trả lương qua ngân hàng, người sử dụng lao động phải trả phí mở tài khoản

Nếu như trước đây, Bộ luật Lao động 2012 quy định khi trả lương qua tài khoản ngân hàng, người sử dụng lao động và người lao động thỏa thuận về các loại phí liên quan đến việc mở và duy trì tài khoản (khoản 2 Điều 94).

Thì nay, Bộ luật Lao động mới quy định việc trả các loại phí liên quan đến mở tài khoản và phí chuyển tiền là trách nhiệm bắt buộc của người sử dụng lao động .

12. Cấm ép người lao động dùng lương để mua hàng hóa, dịch vụ của công ty

Bộ luật mới quy định người sử dụng lao động không được hạn chế hoặc can thiệp vào quyền tự quyết chi tiêu lương của người lao động .

Đặc biệt, không được ép buộc người lao động chi tiêu lương vào việc mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ của người sử dụng lao động hoặc của đơn vị khác mà người sử dụng lao động chỉ định.

13. Người lao động có thể được "thưởng" không chỉ bằng tiền

Bộ luật Lao động 2019 quy định về “Thưởng” thay vì “Tiền thưởng” như Bộ luật cũ. Theo đó khái niệm thưởng cho người lao động cũng được mở rộng ra, có thể là tiền hoặc tài sản hoặc bằng các hình thức khác căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh, mức độ hoàn thành công việc của người lao động.

14. Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào tiền lương của doanh nghiệp

Điều 93 Bộ luật Lao động 2019 quy định, doanh nghiệp được chủ động trong việc xây dựng thang lương, bảng lương và định mức lao động trên cơ sở thương lượng, thoả thuận với người lao động.

Tiền lương trả cho người lao động là số tiền để thực hiện công việc, bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác. Mức lương theo công việc hoặc chức danh không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định.

15. Khi trả lương, doanh nghiệp phải gửi bảng kê chi tiết cho người lao động

Nhằm minh bạch tiền lương của người lao động, Bộ luật này yêu cầu mỗi lần trả lương, người sử dụng lao động phải thông báo bảng kê trả lương người lao động, trong đó ghi rõ: Tiền lương; Tiền lương làm thêm giờ; Tiền lương làm việc vào ban đêm; Nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có)…

16. Đối thoại định kỳ tại nơi làm việc 1 năm/lần

Thay vì tổ chức định kỳ 03 tháng/lần như hiện nay thì khoản 1 Điều 63 Bộ luật Lao động sửa đổi đã nâng thời gian tổ chức đối thoại định kỳ tại nơi làm việc lên 1 năm/lần ; đồng thời, bổ sung thêm một số trường hợp người sử dụng lao động phải tổ chức đối thoại như vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc; khi xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động...

II. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL

Ngày 18 tháng 6 năm 2020, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung 68 điều của Luật năm 2015. Trong đó, đã sửa đổi, bổ sung 54 điều về nội dung (Trung ương 41 điều, địa phương 13 điều) và 14 điều về kỹ thuật (Trung ương 11 điều, địa phương 03 điều), với các điểm mới cơ bản như sau:

1. Tiếp tục khẳng định, làm rõ và sâu sắc hơn cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất, xuyên suốt của Đảng từ Trung ương đến địa phương trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Việc thẩm định, thẩm tra phải bảo đảm “Sự phù hợp của chính sách trong đề nghị xây dựng văn bản và nội dung dự thảo văn bản với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước”.Trường hợp có sự thay đổi lớn về chính sách nhưng phù hợp với tình hình thực tiễn thì cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản báo cáo, xin ý kiến, chủ trương của Đảng.

2. Điểm mới thứ 2 là Luật năm 2020 đã bổ sung, làm rõ quy định về phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc Việt Nam trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Luật năm 2020 quy định rõ thời điểm phản biện xã hội (phải trong giai đoạn tổ chức lấy ý kiến), hình thức phản biện (bằng văn bản độc lập); văn bản được phản biện (chỉ những văn bản liên quan đến quyền và lợi ích của Nhân dân, của Mặt trận); cơ quan chủ trì soạn thảo có trách nhiệm tạo điều kiện để Mặt trận tổ quốc Việt Nam thực hiện việc phản biện xã hội (khoản 2, Điều 1).

3. Bổ sung 02 hình thức văn bản quy phạm pháp luật mới: (1) Nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; (2) Thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ (khoản 1, Điều 1).

Luật năm 2020 quy định rõ Tổng Kiểm toán nhà nước là một chủ thể có quyền tổng liên tịch với các ngành khác; bộ, cơ quan ngang bộ không được liên tịch với nhau.

4. Mở rộng thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật cho cấp huyện, cấp xã. Nếu như Luật năm 2015 chỉ cho phép cấp huyện, cấp xã ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi được luật giao thì Luật năm 2020 cho phép cấp huyện, cấp xã ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi được luật, nghị quyết của Quốc hội giao. Ngoài ra, cấp huyện còn được ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện việc phân cấp cho chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước cấp dưới theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương (khoản 7, Điều 1).

5. Điểm mới quan trọng thứ 5 là Luật năm 2020 đã bỏ yêu cầu lập đề nghị xây dựng quy trình chính sách đối với Nghị định được quy định tại khoản 2, Điều 19; Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tại khoản 2, khoản 3 Điều 27. Tuy không lập đề nghị xây dựng quy trình chính sách nhưng vẫn phải thực hiện báo cáo đánh giá tác động của chính sách để gửi thẩm định, thẩm tra, trình các cơ quan có thẩm quyền.

6. Nhằm nâng cao trách nhiệm, hiệu quả phối hợp của các cơ quan trong quá trình thẩm tra, tiếp thu, chỉnh lý dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết. Luật năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung 05 nội dung quy định trách nhiệm của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội trong hoạt động thẩm tra; sửa đổi, bổ sung 04 điều của Luật năm 2015 (Điều 74, 75, 76 và 77) để quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan trong sự phối hợp tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết.

7. Bổ sung mới 03 loại văn bản quy phạm pháp luật được ban hành theo trình tự, thủ tục rút gọn: (1) Ban hành ngay văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (2) bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội; (3) kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần của văn bản quy phạm pháp luật trong một thời hạn nhất định để giải quyết những vấn đề cấp bách phát sinh trong thực tiễn (khoản 44, Điều 1).

Đối với thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành theo quy định tại khoản 1 Điều 146 của Luật năm 2015 phải xin ý kiến của Bộ Tư pháp trước khi trình Thủ tướng Chính phủ quyết định việc áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn.

8. Quy định cụ thể, hợp lý hơn về thời gian, thời hạn gửi hồ sơ, tài liệu; thời hạn đăng tải và đưa tin văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương và địa phương. Đây là một trong những điểm mới cơ bản nhất của Luật năm 2020 với những quy định cụ thể sau:

- Tăng thời gian gửi hồ sơ thẩm định dự thảo nghị quyết do UBND cấp tỉnh trình từ 20 ngày lên 25 ngày; tăng thời hạn gửi báo cáo thẩm định từ 10 ngày lên 15 ngày.

- Tăng thời gian gửi hồ sơ thẩm định dự thảo nghị quyết của HĐND cấp huyện từ 10 ngày lên 20 ngày.

- Tăng thời gian gửi hồ sơ thẩm định dự thảo nghị quyết của UBND cấp huyện từ 10 ngày lên 20 ngày; tăng thời hạn gửi báo cáo thẩm định từ 05 ngày lên 15 ngày.

- Văn bản quy phạm pháp luật ở trung ương phải được đăng tải toàn văn trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày công bố hoặc ký ban hành.

- Văn bản quy phạm pháp luật ở địa phương phải được đăng tải toàn văn trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua hoặc ký ban hành.

9. Quy định mới về kỹ thuật ban hành một văn bản dùng để sửa đổi nhiều văn bản. Luật năm 2020 quy định 03 trường hợp một văn bản quy phạm pháp luật được ban hành để đồng thời sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ nội dung trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật do một cơ quan ban hành, gồm: (1) Để thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; (2) nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ có liên quan chặt chẽ với nhau để bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất với văn bản mới được ban hành; (3) để thực hiện phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính đã được phê duyệt.

10. Bổ sung trường hợp ngưng hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật. Luật năm 2020 quy định rõ: Để kịp thời bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật quyết định ngưng hiệu lực toàn bộ hoặc một phần của văn bản.

III. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội:

Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức quốc hội số 65/2020/QH13 đã chính thức được thông qua vào ngày 19/6/2020, với nhiều điểm mới đáng chú ý:

- Bên cạnh 05 điều kiện theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội (trung thành với Tổ quốc, nhân dân và Hiến pháp; Có phẩm chất đạo đức tốt, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, gương mẫu chấp hành pháp luật; có điều kiện tham gia các hoạt động của Quốc hội), Luật sửa đổi đã bổ sung thêm nội dung quy định về điều kiện quốc tịch của đại biểu Quốc hội: có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam vào điều kiện để trở thành đại biểu Quốc hội. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn cũng như đảm bảo đại biểu Quốc hội là người Việt Nam.

- Luật sửa đổi cũng quy định nâng số lượng đại biểu Quốc hội thêm 5% so với quy định hiện hành, theo đó, số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội (quy định cũ là 35%).

Quy định này tạo cơ sở pháp lý cho công tác quy hoạch, chuẩn bị nguồn nhân sự để giới thiệu tham gia ứng cử làm đại biểu Quốc hội hoạt động không chuyên trách, góp phần tăng cường tính chuyên nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội.

- Một trong những nội dung đáng chú ý nữa được đưa vào Luật sửa đổi, bổ sung lần này là việc bổ sung thêm nguyên tắc hoạt động của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Trong đó, bổ sung thêm nguyên tắc, cơ quan này sẽ làm việc theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Do đó, những Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành.

IV. Luật Thanh niên (sửa đổi)

Luật Thanh niên số 57/2020/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2020. Luật Thanh niên (sửa đổi) dành một chương riêng quy định trách nhiệm của thanh niên đối với Tổ quốc, Nhà nước và xã hội, gia đình và bản thân thanh niên. Theo đó, thanh niên phải phát huy truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc; xung kích, sáng tạo, đi đầu trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập, giữ vững chủ quyền, an ninh quốc gia, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; đảm nhận công việc khó khăn, gian khổ, cấp bách khi Tổ quốc yêu cầu...

Luật Thanh niên cũng quy định tháng 3 hằng năm là Tháng Thanh niên. Mục đích tổ chức Tháng Thanh niên nhằm phát huy tinh thần xung kích, tình nguyện, sáng tạo của thanh niên để tham gia các hoạt động vì lợi ích cộng đồng, xã hội…

V. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định Tư pháp

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định Tư pháp số 56/2020/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 10/6/2020.

Luật quy định từ năm 2021, Phòng Kỹ thuật hình sự thuộc Viện KSND tối cao được bổ sung chức năng giám định tư pháp. Đây là tổ chức giám định tư pháp công lập về kỹ thuật hình sự với nhiệm vụ giám định về âm thanh, hình ảnh từ các dữ liệu điện tử. Quy định này sẽ đáp ứng yêu cầu cấp thiết trong điều tra, xử lý tội phạm tham nhũng, xâm phạm hoạt động tư pháp; đáp ứng kịp thời nhu cầu về giám định âm thanh, hình ảnh thu thập trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; không làm tăng biên chế ngành kiểm sát.

Ngoài ra, Luật còn bổ sung quy định cấp thẻ giám định viên tư pháp trong quá trình giám định tại cơ quan, tổ chức hoặc tham gia phiên tòa để giải thích, bảo vệ kết luận giám định do mình thực hiện.

VI. Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án là một Luật hoàn toàn mới được thông qua ngày 16/6/2020.

Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án quy định các nội dung liên quan đến việc hòa giải, đối thoại tại Tòa án trước khi Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn; đơn khởi kiện vụ án hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính. Trong đó, quy định rõ các nội dung về Nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên tại Tòa án, các bên tham gia hòa giải, đối thoại tại Tòa án; trách nhiệm của Tòa án đối với hoạt động hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại, công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án.

Luật đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng trong việc thiết lập cơ chế mới để giải quyết tranh chấp dân sự, khiếu kiện hành chính.

VII. Luật Doanh nghiệp (sửa đổi)

Ngày 17/6/2020, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh nghiệp năm 2020.

Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), khái niệm doanh nghiệp Nhà nước đã được định nghĩa lại. Theo đó, doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết, thay vì tỷ lệ tuyệt đối 100% như trước. Luật cũng nới lỏng các điều kiện gia nhập thị trường, giảm bớt thủ tục, trao quyền cho doanh nghiệp nhiều hơn. Luật cũng tạo bước tiến về quản trị doanh nghiệp, trao quyền cho cổ đông chống xung đột lợi ích, đặc biệt là vấn đề lạm dụng quyền cổ đông lớn gây thiệt hại cho cổ đông nhỏ.

Cũng theo quy định của Luật, hộ kinh doanh không còn là đối tượng áp dụng của Luật này mà dự kiến sẽ có một Luật riêng được ban hành để điều chỉnh nhóm đối tượng này.

V III. Luật Đầu tư (sửa đổi)

Ngày 17/6 Quốc hội chính thức thông qua Luật Đầu tư sửa đổi năm 2020.

Luật Đầu tư (sửa đổi) khai tử dịch vụ đòi nợ thuê khi đưa loại hình này vào ngành nghề cấm kinh doanh. Luật cũng bổ sung quy định chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư trên cơ sở giao dịch giả tạo về vốn, tạo cơ sở pháp lý để xử lý các trường hợp đầu tư chui, núp bóng; cấm đầu tư kinh doanh các chất ma túy; hóa chất, động, thực vật hoang dã...

Đặc biệt, Luật quy định rõ việc xem xét các điều kiện an ninh, quốc phòng trong trường hợp nhà đầu tư nước ngoài đầu tư theo hình thức thành lập doanh nghiệp, góp vốn, mua cổ phần; mua phần vốn góp tại các doanh nghiệp ở đảo, xã, phường, thị trấn biên giới, ven biển hoặc các khu vực nhạy cảm về an ninh, quốc phòng.

Nhiều ngành, nghề ưu đãi đầu tư cũng được bổ sung, gồm: Giáo dục đại học; Sản xuất các sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật về khoa học và công nghệ; Sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển; Bảo quản thuốc, sản xuất trang thiết bị y tế; Sản xuất hàng hóa, cung cấp dịch vụ tạo ra hoặc tham gia chuỗi giá trị, cụm liên kết ngành.

IX. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP)

Ngày 18/06/2020, Quốc hội thông qua Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP).

Theo đó, các thông tin được công bố trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia gồm: Thông tin về quyết định, chủ trương đầu tư, quyết định phê duyệt dự án PPP; Thông tin về lựa chọn nhà đầu tư bao gồm thông báo mời sơ tuyển, thông báo mời thầu, danh sách ngắn, kết quả lựa chọn nhà đầu tư; Thông tin về nhà đầu tư được lựa chọn, doanh nghiệp dự án PPP…

Ngoài ra, Luật cũng khu biệt 5 lĩnh vực thiết yếu nhằm tập trung nguồn lực, gồm: giao thông; lưới điện, nhà máy điện (trừ nhà máy thủy điện và trường hợp nhà nước độc quyền theo quy định của Luật Điện lực); thủy lợi, cung cấp nước sạch, thoát nước, chất thải; y tế, giáo dục đào tạo; hạ tầng công nghệ thông tin.

X . Luật Chứng khoán (sửa đổi)

Với 92,12% đại biểu tán thành, ngày 26/11/2019, Quốc hội chính thức thông qua Luật Chứng khoán sửa đổi. Luật có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2021.

Theo đó, Luật này gồm 10 chương, 135 Điều với một số nội dung nổi bật như:

- Tăng điều kiện vốn điều lệ để công ty được chào bán công khai. Theo đó, công ty phải có vốn điều lệ là 30 tỷ đồng thay cho 10 tỷ đồng trước đây;

- Nâng vốn điều lệ của công ty đại chúng lên tối thiểu 30 tỷ đồng so với 10 tỷ đồng hiện nay, ít nhất phải có 100 cổ động nắm giữ tối thiểu 10% tổng số cổ phần…

XI. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng được thông qua, ngày 17/6/2020. Trong đó, đã sửa đổi một số nội dung quan trọng như: bổ sung thêm 09 loại công trình được miễn giấy phép xây dựng, như: nhà ở riêng lẻ quy mô dưới 7 tầng thuộc dự án đầu tư xây dựng khu đô thị, dự án đầu tư xây dựng nhà ở có quy hoạch chi tiết 1/500 đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; Công trình xây dựng ở nông thôn và nhà ở riêng lẻ thuộc khu vực không có quy hoạch đô thị, xây dựng khu chức năng, điểm dân cư nông thôn..., cũng thuộc diện miễn giấy phép xây dựng. Ngoài ra, Luật sửa đổi cũng bổ sung thêm loại giấy phép xây dựng…

Phòng Tư pháp huyện Kỳ Anh

Thêm nhận xét mới

 Bình luận của bạn đã được gửi thành công. Cảm ơn bạn!   Làm mới
Lỗi: Vui lòng thử lại