Kế hoạch Tuyển dụng công chức cấp xã năm 2024   |    Quyết định Về việc phê duyệt chỉ tiêu tuyển dụng công chức cấp xã năm 2024   |    Thông báo tuyển dụng công chức cấp xã năm 2024   |    Công điện về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng cháy, chữa cháy rừng   |    Thông báo mời tham gia tập huấn " Kỹ năng tiếp thị, bán hàng chuyên nghiệp" cho Doanh nghiệp, Hợp tác xã, Hộ kinh doanh   |   

TUYÊN TRUYỀN, PHỔ BIẾN LUẬT AN NINH MẠNG

  

11:30 02/09/2018

Luật An ninh mạng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIV (kỳ họp thứ 5) thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018 và có hiệu thực kể từ ngày 1/1/2019. Luật An ninh mạng gồm 7 chương, 43 Điều.

Luật An ninh mạng được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIV (kỳ họp thứ 5) thông qua ngày 12 tháng 6 năm 2018 và có hiệu thực kể từ ngày 1/1/2019. Luật An ninh mạng gồm 7 chương, 43 Điều.

1. Sự cần thiết ban hành Luật An ninh mạng

Việc xây dựng và ban hành Luật An ninh mạng xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của tình hình an ninh mạng trong nước, yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bí mật nhà nước, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, các nhân, phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định của Hiến pháp năm 2013, cụ thể:

Một là , đáp ứng yêu cầu cấp bách của tình hình an ninh mạng trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội như: Phòng ngừa, đấu tranh hoạt động sử dụng không gian mạng xâm phạm chủ quyền an ninh quốc gia, kích động biểu tình, phá rối an ninh trật tự...; Phòng ngừa, ngăn chặn, ứng phó, khắc phục hậu quả của các hoạt động tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chống chiến tranh mạng; Bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia và áp dụng các biện pháp cần thiết, tương xứng.

Hai là , khắc phục những tồn tại hạn chế cơ bản trong công tác bảo vệ an toàn an ninh mạng như: Tồn tại cách hiểu chưa rõ ràng giữa an ninh mạng và an toàn thông tin mạng dẫn tới một số vấn đề còn chồng chéo, trùng dẫm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng giữa các bộ, ngành chức năng; Chưa có văn bản luật quy định về công tác an ninh mạng nên chưa đủ cơ sở pháp lý để lực lượng chức năng đấu tranh với hành vi vi phạm pháp luật trên không gian mạng.

Ba là , thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng về an ninh mạng.

Bốn là , bảo đảm sự phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân và bảo vệ Tổ quốc.

Năm là , bảo đảm sự phù hợp với thông lệ quốc tế, khi đã có rất nhiều quốc gia trên thế giới ban hành Luật An ninh mạng.

2. Ý nghĩa của việc ban hành Luật An ninh mạng

- xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; Tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng; Phát triển và tăng cường quản lý báo chí điện tử, mạng xã hội và các loại hình truyền thông khác trên Internet.

- Là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện đại, trước việc không gian mạng đã xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và hiện diện trong hầu hết các hoạt động của con người.

3. Phạm vi điều chỉnh của Luật An ninh mạng

Luật An ninh mạng quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan (Điều 1).

4. Các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng (Điều 8)

a) Sử dụng không gian mạng để thực hiện hành vi sau đây:

- Hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội

- Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

- Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;

- Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;

- Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;

- Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

b) Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

c) Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người khác.

d) Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.

đ) Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.

e) Hành vi khác vi phạm quy định của Luật An ninh mạng.

5. Quy định trách nhiệm bảo vệ an ninh mạng

Điều 26​ Luật An ninh mạng quy định​ về bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng. Theo đó, các trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử hoặc chuyên trang trên mạng xã hội của cơ quan, tổ chức, cá nhân không được cung cấp, đăng tải, truyền đưa thông tin có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước ​CHXHCN Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

Doanh nghiệp trong và ngoài nước khi cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng ​Internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có trách nhiệm xác thực thông tin khi người dùng đăng ký tài khoản số; Bảo mật thông tin, tài khoản của người dùng; Cung cấp thông tin người dùng cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng.

Chậm nhất là 24 giờ kể từ thời điểm có yêu cầu của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan có thẩm quyền của Bộ Thông tin và Truyền thông, các doanh nghiệp phải ngăn chặn việc chia sẻ thông tin, xoá bỏ các thông tin có nội dung vi phạm và lưu nhật ký hệ thống để phục vụ điều tra, xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng trong thời gian theo quy định của Chính phủ.

Doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam phải đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam. Dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ tại Việt Nam.

6 . Quy định xử lý hành vi vi phạm Luật An ninh mạng

Người nào có hành vi vi phạm quy định của Luật An ninh mạng thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

7. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng không gian mạng (Điều 42)

- Tuân thủ quy định của pháp luật về an ninh mạng.

- Kịp thời cung cấp thông tin liên quan đến bảo vệ an ninh mạng, nguy cơ đe dọa an ninh mạng, hành vi xâm phạm an ninh mạng cho cơ quan có thẩm quyền, lực lượng bảo vệ an ninh mạng.

- Thực hiện yêu cầu và hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền trong bảo vệ an ninh mạng; giúp đỡ, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức và người có trách nhiệm tiến hành các biện pháp bảo vệ an ninh mạng.

Trong thời gian qua, nhiều thế lực chống đối, một số người chưa đọc kỹ, chưa hiểu hết cho rằng có Luật An ninh mạng chắc chắn cơ quan an ninh có thể giám sát tất cả tài khoản của người sử dụng trên không gian mạng. Nhưng theo quy định của luật, cơ quan chuyên trách về an ninh mạng của Bộ Công an và Bộ Quốc phòng chỉ giám sát đối với hành vi vi phạm pháp luật khi sử dụng không gian mạng. Nếu cơ quan chuyên trách về an ninh mạng lạm dụng nghiệp vụ an ninh mạng để xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân xâm phạm an ninh quốc gia sẽ bị xử lý nghiêm trước pháp luật.

Luật An ninh mạng quy định việc bày tỏ ý kiến cá nhân không vi phạm pháp luật là một hoạt động bình thường, nhưng xúc phạm nhân phẩm, tôn giáo, dân tộc, quyền trẻ em… thì bị cấm. Luật cũng dành hẳn một điều về bảo vệ quyền trẻ em trên không gian mạng. Đây là một sự tiến bộ của luật pháp nước ta.

Luật An ninh mạng sẽ có hiệu lực từ 1/1/2019. Luật cần sự ủng hộ của toàn xã hội và hệ thống chính trị trong việc tuyên truyền về Luật. Mỗi công dân Việt Nam, đặc biệt là thanh niên phải đọc kỹ Luật để đấu tranh, phản bác lại các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt, kích động khi cho rằng Luật An ninh mạng bịt miệng dân chủ, cấm sử dụng Facebook Google …không để kẻ xấu lợi dụng kích động. Mọi hành vi vi phạm đều bị xử lý theo quy định pháp luật.

Hội đồng phối hợp PBGDPL huyện Kỳ Anh

Thêm nhận xét mới

 Bình luận của bạn đã được gửi thành công. Cảm ơn bạn!   Làm mới
Lỗi: Vui lòng thử lại