TÀI LIỆU GIỚI THIỆU LUẬT CẠNH TRANH
Luật Cạnh tranh đã được Quốc hội khoá XIV thông qua tại kỳ họp thứ 5, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2019.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT
Luật Cạnh tranh lần đầu tiên được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, tại kỳ họp thứ 6 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2005. Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 (sau đây gọi là Luật năm 2004) đánh dấu mốc quan trọng trong việc tạo lập hành lang pháp lý thống nhất cho các hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường, đặc biệt là công cụ quan trọng để nhà nước kiểm soát các hành vi có tính chất phản cạnh tranh. Tuy nhiên, sau hơn 12 năm thi hành, với sự thay đổi của bối cảnh và điều kiện kinh tế - xã hội, môi trường pháp lý và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, Luật năm 2004 đã dần bộc lộ những điểm hạn chế, bất cập cần được sửa đổi, bổ sung nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực thi, đáp ứng các yêu cầu thực tiễn. Cụ thể như sau:
1. Đáp ứng các yêu cầu trong xu thế hội nhập kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. Trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia đều có các bộ quy tắc với mục tiêu xây dựng thể chế đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tăng cường hiệu quả, hiệu lực và tính minh bạch trong thực thi pháp luật cạnh tranh. Luậtnăm 2004 cần được sửa đổi theo hướng phù hợp với các cam kết quốc tế và khai thác tốt cơ hội mà các hiệp định thương mại tự do mang lại.
Các quốc gia trên thế giới xác định pháp luật cạnh tranh là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết nền kinh tế, khắc phục những khiếm khuyết của thị trường hoặc những tác động bất lợi của quá trình tự do hóa kinh doanh và thương mại. Chính sách cạnh tranh và các chính sách kinh tế khác, đặc biệt chính sách công nghiệp và thương mại, chính sách điều tiết ngành có mối gắn kết và tác động chặt chẽ với nhau. Việc sử dụng hiệu quả công cụ chính sách cạnh tranh mà chủ yếu là thông qua thực thi pháp luật cạnh tranh sẽ có tác dụng tương hỗ cho các chính sách khác, góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới được dự báo là có những diễn biến phức tạp, xu hướng trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ tại một số quốc gia trên thế giới tiềm ẩn tác động bất lợi đến nền kinh tế trong nước.
2. Đảm bảo sự thích ứng với môi trường kinh doanh
Tình hình môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế có những biến động so với thời điểm nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật năm 2004. Trước hết là sự hình thành của các chuỗi giá trị toàn cầu, gắn kết các nền kinh tế và các công đoạn sản xuất, cung cấp dịch vụ được thực hiện tại nhiều quốc gia, khu vực. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với đặc trưng là kỹ thuật, công nghệ được ứng dụng phổ biến trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Những thay đổi, chuyển biến lớn trong môi trường kinh doanh nêu trên đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện của nhiều phương thức cạnh tranh và kinh doanh mới mà Luật năm 2004 chưa dự liệu hết được. Các phương thức cạnh tranh và kinh doanh mới đó đã và đang làm thay đổi cấu trúc của nhiều thị trường quan trọng và tác động một cách trực tiếp đến các chủ thể trên thị trường. Vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung Luật năm 2004 là cần thiết.
3. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong Luật năm 2004
Thứ nhất, khắc phục hạn chế trong việc thiếu cơ sở để kiểm soát các hành vi được thực hiện bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh tới môi trường cạnh tranh tại Việt Nam.
Với xu thế toàn cầu hóa kinh tế và mở cửa thị trường, phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng mở rộng trên phạm vi lãnh thổ của nhiều quốc gia khác nhau. Khi đó, thực tiễn sẽ phát sinh các hành vi phản cạnh tranh diễn ra bên ngoài lãnh thổ quốc gia, nhưng có tác động tới môi trường cạnh tranh trong nước. Để đối phó với thực trạng này, nhiều quốc gia đã mở rộng phạm vi áp dụng của Luật năm 2004 trên nguyên tắc tác động ảnh hưởng của hành vi để kiểm soát các hành vi phản cạnh tranh xuyên biên giới và bảo vệ thị trường trong nước. Thực tiễn thời gian qua cũng đã xuất hiện những hành vi như thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường hay các giao dịch mua bán, sáp nhập được thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động ảnh hưởng nhất định tới thị trường Việt Nam. Vì vậy, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật năm 2004 theo hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với những hành vi cạnh tranh diễn ra bên ngoài lãnh thổ nhưng có tác động hạn chế cạnh tranh tới môi trường kinh doanh của Việt Nam.
Thứ hai, hoàn thiện quy định kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Luật năm 2004 không có quy định xác định bản chất của hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, mà quy định bằng phương pháp liệt kê 08 hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Các hành vi trong danh sách liệt kê chỉ được mô tả thông qua hình thức biểu hiện bên ngoài mà không đi vào bản chất kinh tế của hành vi. Việc liệt kê và mô tả hành vi một cách chi tiết không dựa trên bản chất hành vi dẫn đến việc bỏ sót hành vi có tác động hạn chế cạnh tranh trên thực tế, hoặc ngược lại, cấm cả những thoả thuận chưa ảnh hưởng đáng kể đến cạnh tranh.
Luật năm 2004 quy định cấm thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo hai cách gồm: (1) Cấm tuyệt đối; và (2) Cấm trên cơ sở thị phần kết hợp của doanh nghiệp tham gia thỏa thuận trên thị trường liên quan, trong đó bao gồm cả các hành vi thoả thuận thuộc nhóm thoả thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng (thoả thuận ấn định giá, phân chia thị trường, kiểm soát sản lượng). Việc không quy định cấm theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên đối với một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng là chưa hợp lý và không phù hợp với xu thế phát triển của pháp luật cạnh tranh thế giới.
Thứ ba, thay đổi cách tiếp cận để hoàn thiện các quy định kiểm soát tập trung kinh tế.
Đối với việc kiểm soát các hoạt động tập trung kinh tế, theo Điều 18 Luật năm 2004, tập trung kinh tế bị cấm nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan (trừ trường hợp được miễn trừ theo quy định tại Điều 19). Đồng thời, các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan phải thông báo cho cơ quan cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế. Cách tiếp cận này là chưa hợp lý bởi việc đánh giá và cấm tập trung kinh tế chỉ dựa trên tiêu chí thị phần không phản ánh đầy đủ, chính xác thực tế thị trường và mức độ tác động của vụ việc đến môi trường cạnh tranh, dẫn tới bỏ sót những trường hợp có khả năng tác động tiêu cực đến cạnh tranh hoặc ngược lại, cấm cả những trường hợp trên thực tế không gây ra tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể.
Ngoài ra, việc chỉ sử dụng tiêu chí thị phần trên thị trường liên quan cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc xác định nghĩa vụ thông báo tập trung kinh tế. Trên thực tế các doanh nghiệp thường chỉ có thể biết về doanh thu, doanh số của mình mà khó có thể biết doanh thu, doanh số chính xác của các doanh nghiệp đối thủ cạnh tranh, do vậy, họ không thể tự xác định thị phần của mình trên thị trường liên quan nên khó có thể biết mình có thuộc trường hợp bị cấm hoặc phải thông báo tập trung kinh tế hay không.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định về cạnh tranh không lành mạnh.
Hiện nay, một số văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau Luật năm 2004 như Luật sở hữu trí tuệ, Luật quảng cáo… có quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việc hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại văn bản luật khác nhau, được thực thi bởi các cơ quan quản lý nhà nước khác nhau dẫn đến chồng chéo về thẩm quyền xử lý hoặc khả năng đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan thực thi pháp luật. Vì vậy, cần được rà soát lại để quy định cho phù hợp.
Thứ năm, khắc phục hạn chế về mô hình của cơ quan cạnh tranh.
Theo quy định của Luật năm 2004, mô hình cơ quan cạnh tranh gồm 02 cơ quan, trong đó Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công Thương, Hội đồng cạnh tranh làm việc theo cơ chế kiêm nhiệm và Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh là bộ phận có chức năng thư ký, giúp việc trong quá trình xử lý các vụ việc hạn chế cạnh tranh. Thực tiễn hơn 12 năm thi hành Luật năm 2004 cho thấy mô hình cơ quan cạnh tranh nêu trên không đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động. Mô hình gồm nhiều cơ quan cạnh tranh cùng với các quy định chưa hợp lý về tố tụng cạnh tranh dẫn đến kéo dài quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh, kết quả giải quyết vụ việc luôn đi sau diễn biến của thị trường, chưa thể hiện vai trò can thiệp kịp thời của Nhà nước để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Sau hơn 12 năm thi hành, Cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh mới chỉ điều tra, xử lý được 06 vụ việc hạn chế cạnh tranh. Thời gian điều tra, xử lý trung bình mỗi vụ là 03 năm. Trong đó, có 04/06 vụ việc bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung; 04/06 vụ việc bị đình chỉ giải quyết. Mô hình này cũng không còn không phù hợp với xu hướng thế giới.
Những hạn chế, bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn nêu trên của Luật năm 2004 dẫn đến thực trạng:
- Các quy định của Luật năm 2004 chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa phát huy được sứ mệnh bảo vệ môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh, làm động lực cho sự phát triển kinh tế.
- Số vụ việc cạnh tranh được phát hiện, điều tra, xử lý còn hạn chế trong khi thực tế môi trường cạnh tranh tại Việt Nam tiềm ẩn nhiều hành vi có tác động tiêu cực tới thị trường, đặc biệt trong những ngành, lĩnh vực có quy mô lớn hoặc đóng vai trò thiết yếu trong nền kinh tế như lĩnh vực năng lượng, dược phẩm, phân phối, bán lẻ, vận tải, logistics, du lịch, các ngành ứng dụng công nghệ,…
- Quá trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, kiểm soát tập trung kinh tế gặp nhiều khó khăn do các quy định của Luật còn cứng nhắc dẫn đến sai sót, bỏ lọt hành vi vi phạm, khó chứng minh hành vi vi phạm của doanh nghiệp, chưa có cơ chế và tiêu chí cụ thể để cơ quan cạnh tranh đánh giá tác động hạn chế cạnh tranh của hành vi, đặc biệt trong các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và tập trung kinh tế để từ đó ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm, bảo đảm và thúc đấy cạnh tranh hiệu quả.
II. CÁC CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI, CHÍNH SÁCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG
1. Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
Tại Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác định nhiệm vụ tổng quát:
“Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nâng cao hiệu lực, hiệu quả, kỷ luật, kỷ cương, công khai, minh bạch trong quản lý kinh tế, năng lực quản lý của Nhà nước và năng lực quản trị doanh nghiệp”.
Trên cơ sở đó, phương hướng nhiệm vụ được đặt ra:“Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. Khuyến khích đẩy mạnh quá trình khởi nghiệp kinh doanh. Có chính sách thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp Việt Nam cả về số lượng và chất lượng, thật sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong các lĩnh vực mà luật pháp không cấm; xây dựng, thực thi đồng bộ, hiệu quả cơ chế hậu kiểm, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch đối với độc quyền nhà nước và độc quyền doanh nghiệp, kiểm soát độc quyền kinh doanh. Hoàn thiện thể chế bảo vệ nhà đầu tư, quyền sở hữu và quyền tài sản. Hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường”.
Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định vấn đề cạnh tranh là cơ sở cho việc xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kinh doanh, trong đó có pháp luật cạnh tranh: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” (Điều 51 Hiến pháp); “Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường” (Điều 52 Hiến pháp).
2. Định hướng xây dựng Luật Cạnh tranh
- Duy trì và bảo vệ môi trường cạnh tranh bình đẳng, hiệu quả giữa các doanh nghiệp trên thị trường
Xuất phát từ vị trí, vai trò của cạnh tranh trong phát triển kinh tế đất nước, Luật năm 2004 cần được sửa đổi, bổ sung để phục vụ cho mục tiêu quan trọng nhất là: “Tạo lập, duy trì và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị trường, từ đó tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, phân bổ hiệu quả các nguồn lực,nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”.
- Kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy pháp lý trong đó nhấn mạnh mục tiêu tăng cường hiệu quả cho công tác thực thi luật
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy Luật Cạnh tranh là phương tiện được Nhà nước sử dụng để điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh trên thị trường trên cơ sở kết hợp tư duy pháp lý và tư duy kinh tế. Các quy định pháp lý về việc đánh giá sức mạnh thị trường hay kiểm soát tập trung kinh tế được xây dựng trên cơ sở các phương pháp phân tích, đánh giá về kinh tế. Trong quá trình xử lý các vụ việc cạnh tranh, bên cạnh những quy phạm pháp luật, cơ quan cạnh tranh cũng cần phải sử dụng các phân tích, đánh giá kinh tế phục vụ cho việc đánh giá vụ việc. Vì vậy, Luật năm 2004 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy pháp lý. Để làm được điều này, cần tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế phát triển cũng như có quá trình thực thi pháp luật cạnh tranh lâu đời trên thế giới.
- Đảm bảo công bằng, minh bạch, khách quan trong quá trình tố tụng
Để việc thi hành luật có hiệu quả, Luật năm 2004 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng đảm bảo tính công bằng, minh bạch và khách quan trong toàn bộ quá trình tố tụng. Điều này có nghĩa là tiêu chí công bằng, minh bạch, khách quan cần phải được thể hiện một cách xuyên suốt từ quá trình thụ lý hồ sơ, điều tra cho đến xử lý vụ việc. Có như vậy, doanh nghiệp, người tiêu dùng mới thực sự tin tưởng và vận dụng Luật Cạnh tranh như một công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình.
3. Mục tiêu xây dựng Luật Cạnh tranh năm 2018
Trên cơ sở các định hướng nêu trên, việc sửa đổi, bổ sung Luật năm 2004 cần đạt được các mục tiêu sau:
Một là, các quy định của Luật Cạnh tranh phải được xây dựng dựa theo mục tiêu xuyên suốt là “Tạo lập, duy trì và bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp trên thị trường, từ đó tăng cường khả năng tiếp cận thị trường, phân bổ hiệu quả các nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”.
Hai là, các quy định điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh của Luật Cạnh tranh phải được xây dựng nhằm mục tiêu đảm bảo tính hợp lý về mặt kinh tế, theo đó phát huy được các tác động tích cực, hạn chế giảm thiểu các tác động phản cạnh tranh của các hành vi kinh doanh trên thị trường. Để đạt được mục tiêu này, cần kết hợp chặt chẽ giữa tư duy kinh tế và tư duy pháp lý trong quá trình xây dựng Luật Cạnh tranh.
Ba là, các quy định của Luật Cạnh tranh phải được xây dựng theo hướng đảm bảo bao quát được nhiều dạng thức kinh doanh ngày càng phức tạp của doanh nghiệp trên thị trường.
Bốn là, các quy định của Luật Cạnh tranh phải được xây dựng theo hướng đảm bảo và tăng cường khả năng thực thi thông qua việc: (1) tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tuân thủ các quy định của Luật; và (2) tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thực thi pháp luật của các cơ quan chức năng.
Năm là, các quy định của Luật Cạnh tranh phải được xây dựng nhằm đảm bảo sự thống nhất, loại trừ các xung đột, mâu thuẫn với các luật chuyên ngành liên quan đến vấn đề cạnh tranh và phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Sáu là, hướng tới xây dựng cơ quan canh tranh độc lập và chuyên nghiệp.
III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT CẠNH TRANH
1. Bố cục của Luật c ạnh tranh
Luật cạnh tranh bao gồm 121 điều, được bố cục thành 10 chương, cụ thể:
Chương I. Những quy định chung (Điều 1 đến Điều 8) quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; áp dụng pháp luật về cạnh tranh; quyền và nguyên tắc cạnh tranh trong kinh doanh; chính sách của Nhà nước về cạnh tranh; trách nhiệm quản lý nhà nước về cạnh tranh và các hành vi bị nghiêm cấm có liên quan tới cạnh tranh.
Chương II. Thị trường liên quan và thị phần (Điều 9 đến Điều 10) quy định về xác định thị trường liên quan; xác định thị phần và thị phần kết hợp.
Chương III. Thoả thuận hạn chế cạnh tranh (Điều 11 đến Điều 23) quy định về thoả thuận hạn chế cạnh tranh; thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm; đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; miễn trừ đối với thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm và trình tự, thủ tục thực hiện các trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm.
Chương IV. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền (Điều 24 đến Điều 28) quy định doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường; doanh nghiệp có vị trí độc quyền; xác định sức mạnh thị trường đáng kể; hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm; kiểm soát doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực độc quyền nhà nước.
Chương V. Tập trung kinh tế (Điều 29 đến Điều 44) quy định về các hình thức tập trung kinh tế, tập trung kinh tế bị cấm và kiểm soát tập trung kinh tế thông qua cơ chế thông báo tập trung kinh tế và thẩm định tập trung kinh tế; các hành vi vi phạm quy định về tập trung kinh tế.
Chương VI. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 45) quy định về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm.
Chương VII. Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia (Điều 46 đến Điều 53) quy định về Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; Chủ tịch và Thành viên Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh; Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh; Điều tra viên vụ việc cạnh tranh.
Chương VIII. Tố tụng cạnh tranh (Điều 54 đến Điều 109) gồm 07 mục quy định về: Quy định chung; cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tiến hành tố tụng cạnh tranh; người tham gia tố tụng cạnh tranh; trình tự, thủ tục điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh; giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; công bố các quyết định của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia; hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh.
Chương IX. Xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh (Điều 110 đến Điều 115) quy định về nguyên tắc xử lý vi phạm, hình thức xử lý vi phạm và biện pháp khắc phục hậu quả vi phạm pháp luật về cạnh tranh; phạt tiền đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh; chính sách khoan hồng; thẩm quyền và hình thức xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh; thi hành quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; thi hành quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Chương IX. Điều khoản thi hành (Điều 116 đến Điều 118) quy định về sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ các quy định trong một số luật khác; hiệu lực thi hành; và điều khoản chuyển tiếp.
2. Những nội dung sửa đổi, bổ sung cơ bản của Luật c ạnh tranh
- Mở rộng phạm vi điều chỉnh
Thực tiễn thực thi pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam cho thấy, trong thời gian gần đây đã xuất hiện một số vụ việc cạnh tranh được thực hiện ở nước ngoài, nhưng có ảnh hưởng nhất định đến thị trường Việt Nam, chẳng hạn, thoả thuận ấn định phí và phụ phí vận chuyển tàu biển giữa các hãng tàu lớn của nước ngoài có ảnh hưởng đến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, hay thương vụ mua bán, sáp nhập có giá trị giao dịch lớn được thực hiện bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động tới thị trường Việt Nam như thương vụ Tập đoàn Abbott mua lại Công ty dược phẩm CFR; Tập đoàn Boehringer Ingelheim International mua lại Sanofi SA trong lĩnh vực thuốc thú y; Tập đoàn Central Group (Thái Lan) mua lại Hệ thống siêu thị Big C Việt Nam… Luật năm 2004 chỉ quy định điều chỉnh đối với “hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh…” và áp dụng đối với “tổ chức, cá nhân kinh doanh…bao gồm cả…doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam”, nên không có cơ sở pháp lý rõ ràng để điều chỉnh các hành vi diễn ra bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, nhưng có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường cạnh tranh tại Việt Nam.
Tại một số nước trên thế giới như Hoa Kỳ, Canada, Úc, New Zealand, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… các cơ quan cạnh tranh gần đây đã điều tra, xử lý nhiều vụ việc thoả thuận hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế xuyên biên giới. Điển hình như vụ thoả thuận ấn định giá, phí vận chuyển hàng hoá bằng đường hàng không giữa hơn hai mươi hãng hàng không lớn trên thế giới hay hai vụ mua bán, sáp nhập giữa các công ty sản xuất ổ cứng nổi tiếng (giữa Western Digital và Hitachi, giữa Samsung và Seagate)…
Vì vậy, để bảo vệ môi trường cạnh tranh tại Việt Nam, Luật Cạnh tranh đã mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường Việt Nam. Cụ thể, Điều 1, Luật Cạnh tranh quy định: “ Luật này quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh đến thị trường Việt Nam; hành vi cạnh tranh không lành mạnh; tố tụng cạnh tranh; xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh; quản lý nhà nước về cạnh tranh ”.
Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh nhằm mục tiêu:
Thứ nhất, tạo hành lang pháp lý để điều tra và xử lý toàn diện mọi hành vi cạnh tranh dù xảy ra tại đâu nhưng có tác động hoặc có khả năng gây tác động tiêu cực đối với thị trường Việt Nam. Việc xử lý kịp thời các hành vi xuyên biên giới góp phần tạo sự ổn định cho nền kinh tế nội địa thông qua việc ổn định các yếu tố thị trường như yếu tố đầu vào, yếu tố đầu ra của nền kinh tế. Điều này đặc biệt quan trọng đối với thị trường các lĩnh vực thiết yếu, lĩnh vực chủ chốt hoặc lĩnh vực phục vụ dân sinh của nền kinh tế.
Thứ hai, việc mở rộng phạm vi điều chỉnh tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan cạnh tranh Việt Nam hợp tác với cơ quan cạnh tranh của các nước khác trong quá trình điều tra, xử lý các vụ việc cạnh tranh, tạo điều kiện thực thi các cam kết về cạnh tranh trong các Hiệp định thương mại song phương và đa phương. Việc duy trì và đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh là tôn chỉ của “Chương cạnh tranh” trong hầu hết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
- Mở rộng đối tượng áp dụng
Cạnh tranh là quy luật tất yếu của kinh tế thị trường, là động lực phát triển nền kinh tế. Trong cơ chế thị trường, các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật (Khoản 2 Điều 51 Hiến pháp 2013). Luật và chính sách cạnh tranh có vai trò tạo lập nền tảng cơ bản cho quá trình cạnh tranh và điều tiết hoạt động cạnh tranh trong mọi ngành, lĩnh vực. Do đó, Luật Cạnh tranh cần được áp dụng với mọi đối tượng liên quan tới cạnh tranh trên thị trường.
Điều 2 Luật năm 2004 quy định: “Luật này áp dụng đối với: 1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh…; 2. Hiệp hội ngành nghề hoạt động tại Việt Nam”. Quy định như vậy chưa bao quát hết các đối tượng, đặc biệt là các tổ chức, cá nhân có liên quan tới các hành vi cạnh tranh bị điều chỉnh mà không phải là tổ chức, cá nhân kinh doanh hay hiệp hội ngành nghề.
Trong khi đó, trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp, cơ quan quản lý nhà nước ở một số địa phương đã ban hành các văn bản có tác động hạn chế cạnh tranh, chẳng hạn như yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tỉnh sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp được chỉ định hoặc phân biệt đối xử, tạo lợi thế cạnh tranh cho một số doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác.
Luật Cạnh tranh đã mở rộng đối tượng áp dụng gồm mọi đối tượng là tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có liên quan tới hoạt động cạnh tranh trên thị trường, cụ thể là:
“1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh (sau đây gọi chung là doanh nghiệp) bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
2. Hiệp hội ngành, nghề hoạt động tại Việt Nam.
3. Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài có liên quan.”
Việc mở rộng đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh đối với mọi đối tượng liên quan đến cạnh tranh trên thị trường nhằm bao quát mọi chủ thể có thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh, sẽ đem lại một số tác động tích cực sau:
Thứ nhất, phù hợp với đặc thù của nền kinh tế Việt Nam (xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, các cơ quan quản lý nhà nước vẫn thường ban hành các quyết định hành chính can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có thể gây tổn hại tới cạnh tranh trên thị trường), giảm thiểu việc tạo ra lợi thế cạnh tranh cho một hoặc một nhóm các doanh nghiệp nào đó đến mức gây bất bình đẳng trong cạnh tranh.
Thứ hai, việc mở rộng đối tượng áp dụng của pháp luật cạnh tranh là một chính sách phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế chung của một Chính phủ kiến tạo, liêm chính, khuyến khích sáng tạo và khởi nghiệp để thúc đẩy cạnh tranh, tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, không phân biệt đối xử.
Thứ ba, đảm bảo sự phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật xử lý vi phạm hành chính… tăng tính hiệu quả và đồng bộ của việc thực thi pháp luật cạnh tranh.
c) Sửa đổi và bổ sung hành vi bị cấm đối với cơ quan nhà nước
Trên cơ sở kế thừa quy định của Luật năm 2004, Luật cạnh tranh tiếp tục quy định đồng thời có sửa đổi và bổ sung hành vi bị cấm đối với cơ quan nhà nước, theo đó, cơ quan nhà nước bị nghiêm cấm thực hiện một số các hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường. Quy định này là hết sức cần thiết bởi với quyền lực nhà nước được trao, cơ quan nhà nước có khả năng lạm dụng quyền lực để thực hiện các hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường. Cơ quan nhà nước là một chủ thể đặc thù của Luật cạnh tranh nên có quy định riêng để điều chỉnh.
d) Hoàn thiện quy định kiểm soát thoả thuận hạn chế cạnh tranh và bổ sung quy định về chính sách khoan hồng nhằm tăng cường hiệu quả thực thi.
Quy định kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện theo hướng mở rộng và thay đổi cách quy định cấm đối với hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thay vì quy định cấm dựa trên mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận như trong Luật năm 2004, Luật quy định các tiêu chí đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể làm cơ sở quy định cấm đối với một số hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm cả thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc, ngoài những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có tính chất nghiêm trọng bị cấm theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên. Quy định của Luật cho phép kiểm soát mọi hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cả theo chiều ngang và theo chiều dọc, gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường. Ngoài ra, Luật bổ sung quy định về chương trình khoan hồng được sử dụng như một công cụ của cơ quan cạnh tranh nhằm tăng cường khả năng phát hiện, điều tra các hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh hiện đang có xu hướng ngầm hoá.
đ) Bổ sung tiêu chí xác định sức mạnh thị trường đáng kể làm cơ sở xác định doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
Để tránh việc xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp phụ thuộc vào tiêu chí thị phần như hiện hành, Luật cạnh tranh xây dựng hệ thống tiêu chí xác định sức mạnh thị trường đáng kể một cách đầy đủ, phù hợp hơn, quy định bổ sung thêm các yếu tố khác ngoài yếu tố thị phần để xác định doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường. Điều này là phù hợp đảm bảo xác định chính xác sức mạnh thị trường của doanh nghiệp và phản ánh đúng thực tiễn cạnh tranh trên thị trường. Ngoài ra, các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm được sửa đổi để phản ánh rõ bản chất hành vi thông qua việc nhấn mạnh yếu tố hậu quả và tác động của hành vi, giúp phản ánh bản chất phản cạnh tranh của hành vi, khắc phục hạn chế của quy định hiện hành là chỉ mới mô tả hình thức biểu hiện bên ngoài mà không nhắm vào bản chất hành vi, gây khó khăn cho quá trình thực thi pháp luật.
e) Thay đổi cách tiếp cận để hoàn thiện quy định kiểm soát tập trung kinh tế
Cách tiếp cận trong kiểm soát tập trung kinh tế trong Luật cạnh tranh có sự thay đổi căn bản, theo đó tập trung kinh tế được coi là quyền của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh gắn với quyền tự do kinh doanh. Luật cạnh tranh không quy định cấm tập trung kinh tế một cách cứng nhắc dựa trên mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan như trong Luật năm 2004 mà thay vào đó chỉ quy định cấm doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường. Doanh nghiệp được tiến hành tập trung kinh tế nếu việc tập trung kinh tế không gây tác động tiêu cực đến cạnh tranh trên thị trường.
Với quy định như vậy, Luật đã thể hiện được quan điểm tiến bộ là luôn tôn trọng và cho phép doanh nghiệp được quyền thông qua hoạt động tập trung kinh tế để phát triển kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện quyền kiểm soát bằng pháp luật để đảm bảo việc tập trung kinh tế không gây tác động tiêu cực tới môi trường cạnh tranh và chỉ can thiệp trong trường hợp việc tập trung kinh tế có tiềm ẩn nguy cơ gây tổn hại cho môi trường cạnh tranh. Luật cạnh tranh quy định trao quyền cho cơ quan cạnh tranh trong việc đánh giá tác động cạnh tranh của việc tập trung kinh tế và tăng cường sự chủ động của doanh nghiệp trong việc thực hiện thủ tục thông báo với cơ quan cạnh tranh và mở rộng các yếu tố đánh giá một vụ việc tập trung kinh tế. Cụ thể:
- Luật cạnh tranh quy định các tiêu chí để doanh nghiệp có thể tự xác định giao dịch có thuộc trường hợp phải thông báo hay không, bao gồm: tổng tài sản, tổng goanh thu, giá trị giao dịch tập trung kinh tế trên thị trường Việt Nam hoặc thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế,
- Luật cạnh tranh quy định thẩm quyền cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trong việc gia thẩm định tập trung kinh tế.
Thông qua việc thay đổi ngưỡng thông báo tập trung kinh tế và thay đổi tiêu chí đánh giá, thẩm định tập trung kinh tế, Luật cạnh tranh đã mở rộng phạm vi kiểm soát bao gồm cả những giao dịch tập trung kinh tế theo chiều dọc và hỗn hợp thay vì chỉ kiểm soát các giao dịch theo chiều ngang như trước đây.
g) Hoàn thiện các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Luật cạnh tranh đã sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thứ nhất, đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã có quy định của pháp luật chuyên ngành khác như hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn; quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong Luật sở hữu trí tuệ, Luật quảng cáo…, quy định theo hướng dẫn chiếu đến quy định của pháp luật khác để tránh chồng chéo, xung đột trong thực thi. Thứ hai, bãi bỏ quy định về hành vi “bán hàng đa cấp bất chính” và hành vi “phân biệt đối xử của hiệp hội”, do những hành vi này không phản ánh đúng bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Thứ ba, bổ sung thêm hành vi “lôi kéo khách hàng bất chính” có bản chất phù hợp với khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh quy.
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh giúp điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo đúng bản chất, tránh chồng chéo, mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác, tránh tạo lỗ hổng pháp lý đối với những hành vi còn chưa được điều chỉnh bởi bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào. Ngoài ra, Luật quy định trường hợp luật khác có quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác với quy định của Luật cạnh tranh thì áp dụng quy định của luật đó.
h) Tổ chức lại cơ quan cạnh tranh để tăng cường hiệu quả thực thi
Luật cạnh tranh quy định thành lập Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trên quan điểm tổ chức lại các cơ quan cạnh tranh theo Luật năm 2004 bao gồm Cơ quan quản lý cạnh tranh (hiện nay là Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng) và Hội đồng Cạnh tranh (bao gồm cả bộ phận giúp việc là Văn phòng Hội đồng Cạnh tranh). Đây là điểm mới quan trọng nhằm tăng cường hiệu quả thực thi của cơ quan cạnh tranh. Mô hình Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia phù hợp với xu hướng chung của thế giới đồng thời giúp thu giảm đầu mối, tinh gọn bộ máy, đảm bảo hoạt động hiệu lực, hiệu quả phù hợp với bối cảnh kinh tế và các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Luật Cạnh tranh quy định cụ thể mô hình, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia nhằm bảo đảm vị thế và tính độc lập của cơ quan này trong tiến hành tố tụng cạnh tranh qua đó tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan này. Trong tố tụng cạnh tranh, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia là cơ quan tiến hành thông suốt các hoạt động tố tụng từ phát hiện, điều tra đến xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh và giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
i) Hoàn thiện quy định về trình tự, thủ tục trong tố tụng cạnh tranh
Các quy định về trình tự, thủ tục trong tố tụng cạnh tranh trong Luật đã được hoàn thiện theo hướng đơn giản hơn, rút ngắn thời gian và có sự phân định rõ các khâu trong quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh, từ phát hiện, điều tra cho đến xử lý và giải quyết khiếu nại. Trong mỗi khâu sẽ gắn với trách nhiệm cụ thể của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng cạnh tranh. Đồng thời, Luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Điều này bảo đảm các hoạt động tố tụng cạnh tranh được rõ ràng, minh bạch để mọi cá nhân, tổ chức, các doanh nghiệp và toàn xã hội có thể theo dõi, giám sát.
3. Các hành vi bị nghiêm cấm theo quy định của Luật c ạnh tranh
Các hành vi bị nghiêm cấm trong Luật cạnh tranh được thiết kế khác nhau đối với các đối tượng khác nhau.
- Khoản 1, Điều 8, Luật cạnh tranh quy định nghiêm cấm cơ quan nhà nước thực hiện hành vi gây cản trở cạnh tranh trên thị trường sau: (1) Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện hoặc không thực hiện việc sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ cụ thể hoặc mua, bán hàng hóa, cung ứng, sử dụng dịch vụ với doanh nghiệp cụ thể, trừ hàng hóa, dịch vụ thuộc lĩnh vực độc quyền nhà nước hoặc trong trường hợp khẩn cấp theo quy định của pháp luật; (2) Phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp; (3) Ép buộc, yêu cầu, khuyến nghị các hiệp hội ngành, nghề, tổ chức xã hội - nghề nghiệp khác hoặc các doanh nghiệp liên kết với nhau nhằm hạn chế cạnh tranh trên thị trường; (4) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để can thiệp trái pháp luật vào hoạt động cạnh tranh.
- Khoản 2, Điều 8, Luật cạnh tranh quy định nghiêm cấm tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, vận động, kêu gọi, ép buộc hoặc tổ chức để doanh nghiệp thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh.
- Điều 11, Luật cạnh tranh quy định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: (1) Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; (2) Thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; (3) Thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; (4) Thỏa thuận để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu khi tham gia đấu thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; (5) Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh; (6) Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên tham gia thỏa thuận; (7) Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; (8) Thỏa thuận áp đặt hoặc ấn định điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp khác hoặc thỏa thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng: (9) Thỏa thuận không giao dịch với các bên không tham gia thỏa thuận; (10) Thỏa thuận hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ của các bên không tham gia thỏa thuận; (11) Thỏa thuận khác gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh.
Điều 12, Luật cạnh tranh quy định thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm: (1) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 11; (2) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp quy định tại các khoản 4, 5 và 6 Điều 11; (3) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên cùng thị trường liên quan quy định tại các khoản 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường; (4) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kinh doanh ở các công đoạn khác nhau trong cùng một chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định quy định tại các khoản 1, 2, 3, 7, 8, 9, 10 và 11 Điều 11 khi thỏa thuận đó gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường.
- Điều 27, Luật cạnh tranh quy định cấm doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi: (1) Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ đối thủ cạnh tranh; (2) Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng; (3) Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng; (4) Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác; (5) Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác; (6) Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác; (7) Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm theo quy định của luật khác.
Doanh nghiệp có vị trí độc quyền bị cấm thực hiện hành vi: (1) Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng; (2) Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây ra hoặc có khả năng gây ra thiệt hại cho khách hàng; (3) Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác; (4) Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác; (5) Ngăn cản việc tham gia hoặc mở rộng thị trường của doanh nghiệp khác; (6) Áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng; (7) Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng; (8) Hành vi lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm theo quy định của luật khác.
- Điều 30, Luật cạnh tranh quy định doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam.
- Điều 45, Luật cạnh tranh quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm: (1) Xâm phạm thông tin bí mật trong kinh doanh; (2) Ép buộc khách hàng, đối tác kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng hành vi đe dọa hoặc cưỡng ép để buộc họ không giao dịch hoặc ngừng giao dịch với doanh nghiệp đó; (3) Cung cấp thông tin không trung thực về doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp đưa thông tin không trung thực về doanh nghiệp gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính hoặc hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó; (4) Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp đó; (5) Lôi kéo khách hàng bất chính; (6) Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp khác cùng kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó; (7) Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của luật khác.
IV. CÁC ĐIỀU KIỆN ĐẢM BẢO THỰC THI LUẬT
1. Theo quy định của Luật cạnh tranh, để đảm bảo thực thi Luật, trước hết phải thành lập Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trên cơ sở sáp nhập các cơ quan cạnh tranh hiện tại. Vì vậy, nguồn kinh phí, nhân lực và cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trên cơ sở kế thừa từ các cơ quan bị sáp nhập.
2. Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách nhằm đảm bảo và khuyến khích cạnh tranh tự do và lành mạnh từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, duy trì và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và lợi ích xã hội, thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế thị trường.
3. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật đúng thời hạn và đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
4. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của Luật đến các đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật từ cơ quan quản lý đến cộng đồng doanh nghiệp về việc tuân thủ pháp luật cạnh tranh.
5. Các cơ quan có thẩm quyền quan tâm và bố trí nguồn nhân lực, ngân sách phù hợp cho việc tổ chức triển khai thi hành Luật.
6. Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức triển khai thực hiện các nội dung được phân công, phân cấp trong Luật một cách quyết liệt và triệt để.
7. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong việc triển khai Luật cạnh tranh năm 2018.
V. DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CHÍNH SÁCH
1. Tác động đến kinh tế - xã hội
Chính sách cạnh tranh là một trong ba trụ cột chính sách về kinh tế gồm chính sách cạnh tranh, chính sách công nghiệp (hay còn gọi là chính sách ngành) và chính sách thương mại. Các chính sách này nhằm đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế; đồng thời cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các yếu tố kinh tế - chính trị - xã hội như biến động kinh tế quốc gia, biến động kinh tế thế giới, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế... Như vậy, rõ ràng từ việc khắc phục những vướng mắc trong các quy định của Luật hiện hành, dựa trên những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian tới, Luật cạnh tranh mới được thông qua sẽ góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong tương lai.
Theo đó, những quy định mới trong Luật cạnh tranh sẽ góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo hành lang pháp lý ổn định, trên nguyên tắc đảm bảo cạnh tranh minh bạch, bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu bảo vệ người tiêu dùng. Luật cạnh tranh sẽ gắn kết chặt chẽ hơn với pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, phát huy tối đa tác động tích cực đến phúc lợi của người tiêu dùng. Mục tiêu cốt lõi của chính sách và luật cạnh tranh hiệu quả đó là đạt được mục tiêu tăng phúc lợi xã hội, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững, hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ trong thập kỷ tới; góp phần tiếp tục thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và Chính phủ, xây dựng nền kinh tế thị trường trên nền tảng cạnh tranh tự do và bình đẳng cho các chủ thể hoạt động trên thị trường.
Việc ban hành Luật cạnh tranh sẽ góp phần nâng cao nhận thức và ý thức của cộng đồng xã hội về vai trò và tầm quan trọng của cạnh tranh, giúp định hình văn hóa cạnh tranh trong kinh doanh và giúp điều chỉnh hành vi ứng xử cho phù hợp không chỉ đối với cộng đồng doanh nghiệp mà cả đối với các cơ quan quản lý nhà nước và toàn thể cộng đồng xã hội (đối với mọi tổ chức, cá nhân khác trong xã hội); góp phần cải cách mở cửa thị trường và dỡ bỏ các quy định hạn chế cạnh tranh, qua đó cải thiện đáng kể về năng suất, cạnh tranh lành mạnh trên thị trường trong nước cũng góp phần làm tăng xuất khẩu (cạnh tranh kém có thể gây tổn hại nhiều hơn cho người nghèo so với người giàu).
Mặt khác, Luật cạnh tranh cũng sẽ góp phần xây dựng một chính sách cạnh tranh minh bạch, ổn định và thống nhất, là cơ sở cho việc xây dựng, mở rộng và đẩy mạnh các quan hệ hợp tác thương mại song phương và đa phương với nhiều quốc gia trên thế giới, phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; đảm bảo việc thực thi có hiệu quả các nội dung cạnh tranh trong các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương mà Việt Nam tham gia.
Việc Luật cạnh tranh có bổ sung thêm một số quy định về phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng, chính sách khoan hồng, điều chỉnh cách tiếp cận về tập trung kinh tế, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và điều chỉnh mô hình cơ quan cạnh tranh đảm bảo phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ với hệ thống pháp luật và các luật công, luật chung mới được Quốc hội thông qua (Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp…).
2. Tác động tới môi trường kinh doanh
Việc ban hành Luật cạnh tranh sẽ góp phần giảm thiểu các rào cản chính đối với cạnh tranh (kỹ thuật, tài chính và pháp lý), qua đó góp phần giảm thiểu các hình thức và hành vi hạn chế cạnh tranh trong cả khu vực tư nhân và khu vực công, tạo cơ hội thúc đẩy sáng tạo, đổi mới và tăng trưởng, đồng thời tạo sự ổn định và công bằng cho môi trường kinh doanh và môi trường đầu tư.
Luật cạnh tranh sẽ bảo đảm một sân chơi bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân trong nước hay nước ngoài, tạo sự nhất quán trong việc áp dụng các quy định đối với mọi thành phần kinh tế; tăng cường nền tảng kinh tế vi mô bao gồm các thể chế vận hành tốt để bảo đảm thực thi cạnh tranh tự do và công bằng, bảo vệ các yếu tố duy trì khả năng cạnh tranh của các chủ thể trên thị trường. Đảm bảo môi trường cạnh tranh hữu hiệu, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế (các doanh nghiệp có thể dễ dàng gia nhập thị trường ); góp phần hoàn thiện khung chính sách cạnh tranh toàn diện nhằm mở cửa thị trường cho doanh nghiệp gia nhập và cạnh tranh, hiệu lực thực thi chính sách cạnh tranh được tăng cường, qua đó nâng cao tính ổn định của môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư, góp phần cho nền kinh tế tăng trưởng bền vững.
Quy định mới của Luật cạnh tranh góp phần hình thành khuôn khổ pháp lý mẫu mực điều chỉnh hành vi của mọi đối tượng liên quan, tất cả các doanh nghiệp, các cá nhân và tổ chức trong xã hội; góp phần duy trì và đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh, là một phần không thể thiếu và đóng vai trò tiên quyết trong việc nâng cao hơn nữa tính ổn định và bền vững của môi trường kinh doanh, vận hành theo các quy luật thị trường và đảm bảo các nguyên tắc không phân biệt đối xử, công khai, minh bạch và ổn định.
Luật cạnh tranh cũng sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật cạnh tranh với các pháp luật chuyên ngành một cách tương thích, đồng bộ nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa mục tiêu phát triển ngành và mục tiêu tạo lập, duy trì và thúc đẩy môi trường cạnh tranh hiệu quả, qua đó góp phần hỗ trợ cho quá trình tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, cải thiện môi trường kinh doanh và thực thi pháp luật công bằng trong mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
Luật cạnh tranh góp phần hoàn thiện vai trò và vị trí của cơ quan cạnh tranh trong xã hội để có vị thế đủ mạnh, có thẩm quyền pháp lý và có thể chủ động giải quyết được một loạt các vấn đề cạnh tranh nóng bỏng trên thị trường trong một số lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như viễn thông, thực phẩm, gas, điện, hàng không… qua đó thể hiện được vai trò quản lý nhà nước trong việc đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Ngoài ra, Luật cạnh tranh cũng sẽ góp phần tăng cường hiệu quả thực thi để theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế thế giới với tốc độ toàn cầu hóa nhanh chóng, trong đó có trách nhiệm và nghĩa vụ của Việt Nam, đảm bảo sự tương thích giữa luật pháp quốc gia với những tiêu chuẩn, luật lệ quốc tế hướng tới việc đảm bảo một thị trường mở và tự do cạnh tranh.
3. Tác động đến người dân
Người dân (người tiêu dùng) sẽ được hưởng lợi trong tiêu dùng, có cơ hội để lựa chọn sản phẩm, dịch vụ với chất lượng tốt và giá cả phù hợp (mức giá cạnh tranh) do thị trường cạnh tranh mang lại. Đồng thời, người dân cũng có cơ hội để phản ánh, cung cấp thông tin và khiếu nại về các vụ việc cạnh tranh gây tác động bất lợi đến thị trường và qua đó tác động trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng.
Luật Cạnh tranh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả nền kinh tế, giúp phúc lợi xã hội gia tăng, đảm bảo sự ổn định cuộc sống cho người dân. Mặt khác, nâng cao hiệu quả thực thi Luật Cạnh tranh cũng giúp người dân tiết kiệm chi phí, đem lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho người dân.
4. Tác động tới doanh nghiệp
Luật cạnh tranh sẽ giúp tăng cường sự minh bạch và ổn định của môi trường kinh doanh, môi trường đầu tư cho các doanh nghiệp, các chủ thể hoạt động trên thị trường. Doanh nghiệp có thể chủ động điều chỉnh các hành vi phản cạnh tranh, sẽ giảm thiểu sự vi phạm pháp luật cạnh tranh, qua đó không phát sinh chi phí bị phạt do thực hiện các hành vi phản cạnh tranh, tiết kiệm được chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh. Mặt khác, việc vi phạm Luật cạnh tranh cũng sẽ làm doanh nghiệp bị hao tổn về thời gian và nguồn lực phục vụ công tác điều tra và xử lý, qua đó gia tăng chi phí phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh (đây là chi phí vô hình, khó lượng hóa chính xác). Do đó, để tránh những chi phí phát sinh như vậy, doanh nghiệp sẽ tự nâng cao nhận thức về việc tuân thủ pháp luật cạnh tranh, góp phần xây dựng văn hóa cạnh tranh cho cộng đồng doanh nghiệp.
VI. TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG THI HÀNH LUẬT
Theo quy định, Luật cạnh tranh có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2019, vì vậy, cần có sự khẩn trương của các cơ quan liên quan, sự chung tay đồng lòng của cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội để Luật cạnh tranh có thể được thực thi ngay khi có hiệu lực.
1. Bộ Công Thương xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định triển khai thi hành Luật cạnh tranh.
2. Bộ Công Thương, Cơ quan được Chính phủ giao chủ trì soạn thảo Luật cạnh tranh và các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành, phải nhanh chóng bắt tay ngay vào việc triển khai xây dựng trình Chính phủ ban hành các Nghị định, cụ thể:
- Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật cạnh tranh;
- Nghị định quy định chi tiết Luật cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh;
- Nghị định quy định chi tiết nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia.
Đồng thời, Bộ Công Thương khẩn trương lên phương án kiện toàn bộ máy tổ chức và hoạt động của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia trên cơ sở Nghị định của Chính phủ được ban hành.
3. Bộ Công Thương phối hợp với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh và các cơ quan liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn thi hành Luật.
4. Đối với các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải hệ thống và rà soát lại toàn bộ nội dung các văn bản do mình ban hành để sửa đổi hoặc bãi bỏ những nội dung không phù hợp hoặc trái với quy định của Luật cạnh tranh.
5. Các cơ quan truyền thông, báo chí tích cực đưa tin, tuyên truyền nội dung của Luật cạnh tranh để góp phần phổ biến rộng rãi các quy định của pháp luật cạnh tranh tới cộng đồng doanh nghiệp và toàn thể xã hội nhằm bảo đảm thực thi hiệu quả luật này sau khi có hiệu lực.
6. Các cơ quan đào tạo, trường đại học, viện nghiên cứu chủ động cập nhật chương trình đào tạo liên quan tới pháp luật cạnh tranh./.
Add New Comment