Báo cáo Phân tích tình hình sản xuất Nông, lâm và thủy sản năm 2019
A. Nông nghiệp.
I. Trồng trọt.
Năm 2019, hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Kỳ Anh diễn ra trong điều kiện thời tiết tương đối thuận cho việc sản xuất và sự phát triển cây trồng hàng năm, trên địa bàn huyện mạnh dạn mở rộng mô hình lúa có chất lượng cao, như giống BT09, BQ, DQ11, VNA2, Nếp 97, 98, RVT. Kết thúc vụ gieo trồng cây hàng năm vụ Đông xuân 2019 toàn huyện đã thực hiện được 14.335,7 ha, so với cùng kỳ năm ngoái chỉ bằng 97,5%, giảm diện tích chủ yếu là cây Lạc, Rau các loại và cây Đậu các loại. Nguyên nhân diện tích cây Lạc giảm là do giá Lạc năm ngoái các thương lái chỉ mua với giá 15.000 đ/kg - 17.000 đ/kg, sau khi tính toán bà con thấy không cho hiệu quả kinh tế cao, bên cạnh đó năm nay trong vụ Hè thu thời tiết nắng nóng kéo dài làm cho đất khô cứng bà con không làm đất được để gieo, trỉa dẫn đến diện tích giảm. Sơ bộ diện tích, năng suất, sản lượng các loại cây hàng năm cả năm 2019 như sau:
a. Cây lương thực có hạt.
Cây lúa: Diện tích đạt 10.018,3 ha, tăng so với diện tích gieo cấy năm ngoái 0,8% hay tăng 81,9 ha. Nguyên nhân diện tích cây Lúa năm nay tăng là do như xã Kỳ Thọ đo đạc lại tăng trên 50 ha, vậy đã làm cho diện tích cây lúa chung toàn huyện tăng. Năng suất sơ bộ đạt 51,48 tạ/ha, so với năm ngoái chỉ bằng 98%. Nguyên nhân năng suất lúa bình quân cả năm nay giảm tương đối lớn là do trong năm, sản xuất lúa thời tiết vụ Hè thu không thuận lợi nắng nóng kéo dài đã ảnh hưởng đến phát triển của cây lúa. Đặc biệt làm 116 ha lúa bị mất trắng, từ đó đã làm cho năng suất lúa năm nay giảm so với năm ngoái. Sản lượng sơ bộ đạt 51.575,8 tấn, so với năm ngoái giảm 628 tấn (hay chỉ bằng 98,8%). Nguyên nhân sản lượng năm nay giảm là do năng suất Lúa toàn huyện năm nay giảm 1,06 ta/ha, đã làm cho sản lượng Lúa giảm so với năm ngoái.
Cây ngô: Diện tích chỉ đạt 147,9 ha, so với năm ngoái tăng 36,4%. Năng suất sơ bộ đạt 27,05 ta/ha, chỉ bằng 96,7% so với năm ngoái. Sản lượng sơ bộ đạt 400 tấn, so với năm ngoái tăng 31,9%. Nguyên nhân sản lượng tăng mạnh là do diện tích Ngô tăng so với năm ngoái, đã làm cho sản lượng Ngô chung toàn huyện năm 2019 tăng.
b. Cây lấy củ có chất bột:
Cây khoai lang: Năm nay diện tích đạt 324,8 ha so với năm ngoái tăng 1,9%. Năng suất ước đạt 67,06 ta/ha, so với năm ngoái chỉ bằng 97,4%, sản lượng sơ bộ đạt 2.178,2 tấn, so với năm ngoái chỉ bằng 99,3%. Nguyên nhân sản lượng cây khoai lang giảm là do năng suất khoai lang giảm, so với năm ngoái.
Cây sắn: Diện tích chỉ đạt 1.399,8 ha, so với năm ngoái tăng 3,3%. Nguyên nhân diện tích cây sắn tăng là do nhà máy chế biến tinh bột Công ty TNHH Thành Mỹ Phát đã mua đây chuyền của Nhà máy VEDAN đã hoạt động trở lại và có chính sách mua nguyên liệu giá đầu vào cao hơn so với giá Sắn mua vào các năm trước, nên trong năm nay bà con ở các xã vùng trên đã trồng trở lại, đã làm diện tích cây Sắn tăng so với vụ Mùa năm ngoái. Năng suất sơ bộ đạt 197,82 tạ/ha, giảm so với năm ngoái 4,4 tạ/ha (hay chỉ bằng 97,8%). Sản lượng sơ bộ đạt 27.691,3 tấn, tăng so với năm ngoái 283,8 tấn, hay tăng 1%.
Cây khoai mỡ: Diện tích đạt 2 ha, năm nay chỉ có bà con xã Kỳ Tây sống gần diện tích dự án Công ty Chăn nuôi Bình Hà năm 2018 do chăn nuôi không có hiệu quả, nên bà con lấy giống khoai mỡ về trồng thử. Năng suất sơ bộ đạt 55 tạ/ha, sản lượng ước đạt 11 tấn.
Cây có củ khác: Diện tích đạt 2,9 ha, diện tích khoai môn bà con chỉ trồng với diện tích ít, bởi vì Khoai môn không cho hiệu quả kinh tế cao. Năng suất sơ bộ đạt 67 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 19,4 tấn.
c. Cây có hạt chứa dầu:
Cây lạc: Diện tích chỉ đạt 1.300,4 ha, so với năm ngoái chỉ bằng 74%. Nguyên nhân diện tích lạc năm nay giảm là do diện tích lạc Vụ Đông Xuân và Hè Thu đều giảm cụ thể như sau: Diện tích lạc vụ Đông xuân năm nay gieo trỉa đạt 1.240,2 ha, giảm so với năm ngoái 418,1 ha, (hay chỉ bằng 74,8%). Diện tích vụ Hè thu năm nay gieo trỉa đạt 60,2 ha, giảm so với vụ Hè thu năm ngoái 38,7 ha, (hay chỉ bằng 60,9%). Nguyên nhân diện tích cây Lạc năm nay giảm là do giá Lạc bán ra của người sản xuất cho thương lái chỉ được giá rất thấp, theo bà con tính toán thì gieo trỉa Lạc thì tốn nhiều công lao động, dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao, nên vụ năm nay bà con gieo trỉa đạt thấp, bên cạnh đó trong thời gian gieo trỉa vụ Đông Xuân thời tiết không thuận lợi, mưa kéo dài các xã ở vùng có chất đất thịt bà con không làm đất được mà gieo trỉa. Năng suất sơ bộ đạt 27,04 ta/ha, sản lượng sơ bộ đạt 3.516,7 tấn, so với năm ngoái chỉ bằng 74,5%. Nguyên nhân sản lượng giảm là do năm nay diện tích cây lạc giảm mạnh, đã làm cho sản lượng chung cây Lạc giảm so với năm ngoái.
Cây vừng: Diện tích năm nay gieo trỉa đạt 24,54 ha, so với năm ngoái chỉ bằng 26,8%. Nguyên nhân diện tích gieo trỉa Vừng năm nay giảm mạnh là thường các năm trước cây Vừng chủ yếu gieo vào vụ Hè thu, nhưng năm nay vào vụ Hè thu thời tiết không thuận lợi năng nóng kéo dài, bà con không làm đất gieo trỉa được, nên diện tích Vừng giảm so với năm ngoái. Năng suất sơ bộ đạt 4,04 tạ/ha, đạt 94,7% so với năm ngoái. Sản lượng sơ bộ đạt 9,9 tấn, so với năm ngoái chỉ bằng 25,3%. Nguyên nhân sản lượng cây Vừng giảm là do diện tích cây Vừng giảm mạnh so với năm ngoái.
d. Cây rau, đậu, hoa, cây cảnh:
Rau các loại: Diện tích gieo trồng chỉ đạt 648 ha, so với năm ngoái chỉ bằng 92,7%). Nguyên nhân diện tích gieo trỉa rau các loại giảm là vào đầu vụ Hè thu năm nay thới tiết nắng nóng kéo dài, bà con không làm được đất để gieo trỉa, nếu gieo hạt thì cũng không nẩy mầm được từ đó diện tích rau các loại cả năm giảm. Năng suất rau các loại sơ bô đạt 66,26 tạ/ ha, so với năm ngoái tăng 4,4%. Sản lượng rau các loại sơ bộ đạt 4.294 tấn.
Đậu các loại: Diện tích năm nay chỉ đạt 136,8 ha, so với năm ngoái chỉ bằng 55,9%. Nguyên nhân diện tích cây đậu các loại năm nay giảm là do vào giai làm đất gieo trỉa Đậu các loại vụ Hè thu 2019, thời tiết nắng nóng kéo dài nên bà con không làm được đất để gieo trỉa, đã làm cho diện tích cây Đậu chung toàn huyện giảm mạnh so với năm ngoái. Năng suất sơ bộ đạt 9,78 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 133,8 tấn, so với năm ngoái chỉ bằng 55,8%. Nguyên nhân sản lượng cây Đậu giảm mạnh là do giảm diện tích gieo trỉa dẩn đến sản lượng chung cây Đậu toàn huyện giảm so với năm ngoái.
e. Cây gia vị, dược liệu hàng năm:
Diện tích đạt 108,1 ha, so với năm ngoái tăng 4,2%. Năng suất sơ bộ đạt các loại cây gia vị 73 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 789,1 tấn. Nguyên nhân diện tích cây gia vị năm nay tăng do bà con gieo, trồng cây Ngò, Riềng với diện tích lớn nên diện tích cây gia vị tăng.
f. Cây hàng năm khác:
Diện tích năm nay đạt 222,3 ha, so với năm ngoái chỉ bằng 96,4%. Nguyên nhân diện tích cây hàng năm khác (cỏ voi) giảm là trên địa bàn huyện Kỳ Anh do xu thế chăn nuôi trâu, bò giảm, nên bà con trồng cỏ với diện tích giảm. năng suất đạt 219 tạ/ha, sản lượng đạt 4.868,7 tấn. Nhìn chung loại cây cỏ voi nó cho năng suất tương đối cao.
* Tình hình dich bệnh, thiên tai ảnh hưởng đến cây trồng: Trong năm 2019 trên địa bàn huyện nhà xảy ra đợt mưa lũ từ ngày 30/8 đến ngày 06/9 đã làm ngập 350 ha diện tích lúa vụ Hè thu 2019 làm cho năng suất lúa thu hoạch bị giảm.
2. Cây lâu năm:
Tình hình thời tiết trong năm 2019 khá thuận lợi cho sự sinh trưởng, phát triển của các loại cây vào thời kỳ nở hoa, cho trái, thời tiết ấm áp, làm cho các loại cây cho kết quả năng suất tương đối cao. Diện tích cây lâu năm hiện có là 1.779,9 ha, tăng so với năm ngoái 149,9 ha, hay tăng 9,2%. Huyện nhà tiếp tục thực hiện chính sách theo Nghị Quyết số 01/NQ - HĐND ngày 05 tháng 8 năm 2016 ban hành quy định một số chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp giai đoạn 2016 - 2020; hổ trợ về giống cây ăn quả các xã về đích nông thôn mới 2019. Sơ bộ diện tích, năng suất, sản lượng cây lâu năm, trong năm 2019 từng loại cây như sau:
a. Cây ăn quả
Cây xoài: Diện tích hiện có đạt 41,8 ha, diện tích cho sản phẩm 35,3 ha, năng suất sơ bộ đạt 26,26 tạ/ha, tăng so với năm ngoái xấp xỉ 0,3 tạ/hạ, hay tăng 1,3%. Sản lượng sơ bộ đạt 92,7 tấn, tăng 25,4 tấn, hay tăng 37,7%. Sản lượng tăng là do diện tích cho sản phẩm tăng 9,4 ha so với năm ngoái.
Cây chuối: Diện tích hiện có 205,1 ha, tăng 25,2 ha so với năm ngoái, hay tăng 14%, trong đó diện tích cho sản phẩm 138,8 ha. Công ty chăn nuôi bình Hà, sau khi chăn nuôi bò không cho hiệu quả, đã chuyển sang trồng chuối, giống chuối Cavendish để xuất khẩu cho hiệu quả kinh tế cao. Năng suất sơ bộ đạt 169,9 ta/ha, tăng 1 tạ/ha, hay tăng 0,6%. Sản lượng sơ bộ đạt 2.358,5 tấn, tăng 300,2 tấn, hay tăng 14,6%. Nguyên nhân sản lượng Chuối năm nay tăng, là do diện tích cây Chuối đã cho sản phẩm tăng 16,9 ha so với năm ngoái.
Dứa thơm: Diện tích hiện có 17,8 ha, tăng 6,1 ha so với năm ngoái, trong đó diện tích cho sản phẩm 6,4 ha. Năng suất sơ bộ đạt 23,8 ta/ha, giảm 0,3 tạ/ha so với năm ngoái, sản lượng sơ bộ đạt 15,3 tấn, giảm 0,1 tấn so với năm ngoái. Nguyên nhân diện tích dứa thơm tăng là bà con trồng xung quanh vườn và những nơi diện tích cao ráo, bên cạnh đó Dứa quả dễ bán nên bà con trồng diện tích Dứa thơm tăng so với năm ngoái.
Cây na: Diện tích hiện có 41,2 ha, tăng 0,6 ha so với năm ngoái, trong đó diện tích cho sản phẩm 27,5 ha. Năng suất sơ bộ đạt 33,19 ta/ha, tăng 0,7 ta/ha so với năm ngoái, sản lượng sơ bộ đạt 91,4 tấn. Diện tích cây na có biến động bởi một số cây không cho hiệu quả kinh tế cao nên bà con chặt bỏ và trồng mới diện tích cây na nên diện tích tăng so với năm ngoái.
Cây đu đủ: Diện tích hiện có đạt 10,9 ha, tăng 0,5 ha so với năm ngoái. Năng suất sơ bộ đạt 86,51 tạ/ha, giảm 0,7 ta/ha so với năm ngoái. Sản lượng sơ bộ đạt 55,5 tấn.
Cây ổi: Diện tích hiện có 48 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 28,9 ha. Năng suất sơ bộ đạt 38,78 tạ/ha. Sản lượng sơ bộ đạt 111,9 tấn. Nguyên nhân diện tích cây ổi tăng là trong năm bà con được hổ trợ cây giống, phát triển mô hình vườn mẫu nông thôn mới nên diện tích tăng mạnh so với năm ngoái.
Cây mít: Diện tích hiện có 172,6 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 119 ha. Năng suất sơ bộ đạt 170,67 ta/ha, giảm 5,5 ta/ha so với năm ngoái. Sản lượng sơ bộ đạt 2.031,6 tấn, tăng 141,6 tấn so với năm ngoái. Nguyên nhân sản lượng Mít năm nay tăng, là do diện tích cây Mít đã cho sản phẩm tăng 11,8 ha so với năm ngoái.
b. Cam, quýt và các loại quả có múi khác
Cây cam: Diện tích hiện có 171,4 ha, tăng 29,9 ha so với năm ngoái, hay tăng 21,1%. Nguyên nhân diện tích Cam hiện có tăng so với cùng kỳ năm ngoái là do bà con các xã vùng Thượng lấy loại giống Cam Hương Sơn, Cam khe mây và Cam Xã Đoài về trồng theo mô hình trang trại loại giống Cam này cho năng suất và chất lượng cao hơn. Năng suất sơ bộ đạt 67,03 tạ/ha. Sản lương sơ bộ đạt 497,3 tấn. Quýt: Diện tích hiện có 83,8 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 45,4 ha, năng suất sơ bộ đạt 37,35 tạ/ha, bằng với năm ngoái. Sản lượng sơ bộ đạt 169,5 tấn, tăng so với năm ngoái 19 tấn. Nguyên nhân sản lượng Quýt năm nay tăng, là do diện tích cây Quýt đã cho sản phẩm tăng 5,1 ha so với năm ngoái.
Chanh: Diện tích hiện có 38,9 ha, tăng 5,4 ha so với năm ngoái, trong đó diện tích cho sản phẩm 28,6 ha. Năng suất sơ bộ đạt 57,91 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 165,4 tấn, tăng so với năm ngoái 26,9 tấn. Nguyên nhân sản lượng Chanh năm nay tăng, là do diện tích cây Chanh đã cho sản phẩm tăng 5 ha so với năm ngoái.
Cây bưởi: Diện tích hiện có 154,8 ha, tăng 17,6 ha so với năm ngoái, trong đó diện tích cho sản phẩm 73,6 ha. Nguyên nhân diện tích bưởi tăng là bà con các xã Kỳ Trung, Kỳ Thương có chất đất thổ nhưỡng phù hợp với cây Bưởi cho năng suất, giá trị cao từ đó diện tích cây Bưởi trong năm tăng hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Năng suất sơ bộ đạt 57,77 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 425,4 tấn, tăng so với năm ngoái là 45,7 tấn. Nguyên nhân sản lượng Bưởi năm nay tăng, là do diện tích cây Bưởi đã cho sản phẩm tăng 8,3 ha so với năm ngoái.
c. Táo , mận và các loại quả có hạt như táo
Cây táo: Diện tích hiện có 8,1 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 1,9 ha. Năng suất sơ bộ đạt 9,74 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 1,9 tấn.
Mận: Diện tích hiện có 0,7 ha, năng suất sơ bộ đạt 19 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 1,3 tấn.
Nhãn: Diện tích hiện có 62,9 ha. so với năm ngoái tăng 2 ha. Năng suất sơ bộ đạt 22,87 tạ/ha, giảm 5,5 tạ/ha, nguyên nhân năng suất Nhãn giảm là do năm nay thời tiết trong thời kỳ ra hoa nắng nóng kéo dài ảnh hưởng đến ra quả. Đặc biệt cây Nhăn là cứ năm nay cho quả nhiều thì năm tiếp theo lại cho quả ít vì khi bà con thu hoạch bẻ cả cành nên nó phải có thời gian sau 1 năm nó mới cho quả. sản lượng sơ bộ đạt 82,2 tấn.
Vải: Diện tích hiện có 39,2 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 25,1 ha. Năng suất sơ bộ đạt 31,54 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 79,1 tấn.
e. Cây lấy quả chứa dầu:
Cây Dừa: Diện tích hiện có 2,6 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 1,5 ha. Năng suất sơ bộ đạt 70,50 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 10,4 tấn.
f. Hồ tiêu:
Diện tích hiện có 48,3 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 34,2 ha. Năng suất sơ bộ đạt 13,12 tạ/ ha, sản lượng sơ bộ đạt 44,9 tấn, tăng so với năm ngoái 14,7 tấn. Nguyên nhân sản lượng Hồ tiêu năm nay tăng, là do diện tích cây Hồ tiêu đã cho sản phẩm tăng 10,6 ha so với năm ngoái.
g. Chè:
Chè búp: Diện tích hiện có 358,5 ha, giảm 18,5 ha so với năm ngoái (hay chỉ bằng 95,1%). Nguyên nhân diện tích cây Chè búp giảm trong năm thời tiết không thuận lợi do nắng nóng kéo dài đã làm chết 11,8 ha không thể phục hồi. Năng suất sơ bộ đạt 117,74 tạ/ha, giảm 0,4 tạ/ha so với năm ngoái. Sản lượng sơ bộ đạt 2.786,8 tấn, tăng so với năm ngoái 126,4 tấn. Nguyên nhân sản lượng chè búp năm nay tăng, là do diện tích cây chè búp cho sản phẩm tăng 11,7 ha so với năm ngoái.
Chè lấy lá: Diện tích hiện có 227,7 ha, trong đó diện tích cho sản phẩm 220,9 ha. Năng suất sơ bộ đạt 117,74 ta/ha, sản lượng sơ bộ đạt 2.601 tấn.
h. Cây lâu năm khác
Diện tích hiện có 26,6 ha. Chia ra: Diện tích Trầu 12,4 ha, diện tích cho sản phẩm 9,9 ha, năng suất sơ bộ đạt 39,86 tạ/ha, sản lượng sơ bộ đạt 39,3 tấn. Diện tích Cây Cau 14,2 ha, diện tích cho sản phẩm 10,6 ha, năng suất sơ bộ đạt 51,8 ta/ha, sản lượng sơ bộ đạt 54,6 tấn.
Tình hình thiệt hại thiên tai và sâu bệnh: Trong năm trên địa bàn huyện Kỳ Anh, thiệt hại đối với cây lâu năm do thiên tai gây ra là vào giai đoạn tháng 6 - 7 nắng nóng kéo dài nhiệt độ cao đã làm cho diện tích cây Chè búp bị chết 11,8 ha, về sâu bệnh chỉ xuất hiện một số sâu cuốn lá, sâu đục thân.
II. Chăn nuôi .
Năm 2019 tình hình chăn nuôi trên địa bàn huyện Kỳ Anh gặp thời tiết ấm áp thuận lợi cho gia súc, gia cầm phát triển, giá trâu, bò và lợn hơi xuất chuồng có tăng lên, bên cạnh những thuận lợi, thì cũng gặp muôn vạn khó khăn thách thức cho bà con chăn nuôi. Đó là từ đầu năm đã xảy ra dịch bệnh Lở mồm long móng đối với lợn, rồi dịch tả lợn Châu Phi từ đó tác động đến tình hình phát triển kinh tế của huyện nhà nói chung, đời sống trực tiếp của bà con chăn nuôi nói riêng.
Những tháng cuối năm nay tình hình chăn nuôi trên địa bàn huyện Kỳ Anh cũng chịu ảnh hưởng của dịch tả Châu Phi trên đàn lợn nên cũng tác động rất lớn đến ngành chăn nuôi. Bà con chăn nuôi nhỏ lẻ qui mô từ 10 đến 20 con giảm so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh những diển biến phức tạp về dịch bệnh; xu thế bà con chuyển sang chăn nuôi gia súc như Bò tăng vì giá thịt bò hơi xuất chuồng hiện nay khá cao, ước đạt khoảng 105.000 đồng/1kg.
Về số liệu tổng đàn gia súc, gia cầm hiện có trong năm 2019 cụ thể như sau:
Tổng đàn trâu hiện có là 8.352 con, tăng 165 con, hay tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái. Nguyên nhân tổng đàn trâu tăng là do về mùa này thức ăn dồi dào, ngoài đồng chưa đến vụ sản xuất, việc chăn thả thuận lợi, bên cạnh đó dịch bệnh đối với đàn Lợn, từ đó bà con chăn nuôi chuyển sang chăn nuôi trâu vổ béo bán thịt, số lượng trâu nuôi trong dân tăng.
Tổng đàn bò là 11.494 con, so với cùng kỳ năm ngoái tăng 835 con, hay tăng 7,8%. Nguyên nhân đàn bò hiện có tăng mạnh là do mấy tháng nay dịch tả châu Phi đối với đàn lợn, nên bà con chăn nuôi chuyển sang chăn nuôi bò bằng hình thức nuôi nhốt, vổ béo, nhu cầu người tiêu dùng trên địa bàn cũng chiếm khoảng 42% thị phần thịt gia súc, giá bán thịt bò hơi xuất chuồng cũng tăng so với cùng kỳ năm ngoái, bà con tính toán chăn nuôi bò cho hiệu quả kinh tế đạt khá cáo.
Tổng đàn lợn hiện có là 30.010 con. Trong đó, đàn lợn thịt 26.480 con, đàn lợn nái 3.475 con. Lợn đực giống của toàn huyện hiện có 55 con. So với cùng kỳ năm ngoái số đầu con lợn giảm 4.882 con (hay chỉ bằng 86%). Nguyên nhân tổng đàn lợn giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái, là dịch bệnh đối với đàn Lợn diển biến hết sức phức tạp, làm cho người chăn nuôi hoang mang, thiệt hại rất lớn đến kinh tế hộ chăn nuôi, từ đó tổng đàn lợn giảm mạnh so với cùng kỳ năm ngoái.
Tổng đàn gia cầm hiện có là 801,258 ngàn con, tăng so với cùng kỳ năm ngoái 20,6 ngàn con. Trong đó, tổng đàn gà hiện có là 676,820 ngàn con, tăng so với cùng kỳ năm ngoái 40 ngàn con. Chia ra, gà đẻ trứng hiện có 149,250 ngàn con, gà thịt hiện có 527,570 ngàn con. Qua số liệu về tổng đàn gia cầm tăng là do xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng thực phẩm của người dân tăng sau khi dịch bệnh đối với đàn lợn thì người tiêu dùng chuyển sang sử dụng thực phẩm như thịt bò, thịt gà từ đó bà con chăn nuôi gia cầm tổng đàn tăng.
Sản lượng thịt trâu xuất chuồng trong năm 2019 ước đạt 580 tấn, giảm so với cùng kỳ năm ngoái 200 tấn (hay chỉ bằng 74,4%).
Sản lượng thịt bò xuất chuồng trong năm 2019 ước đạt 734 tấn, giảm so với cùng kỳ năm ngoái 111 tấn (hay chỉ bằng 86,9%). Nguyên nhân sản lượng thịt bò xuất chuồng trong năm giảm mạnh là do trên địa bàn huyện nhà năm ngoái giá thịt bò xuất chuồng giảm, bà con chăn nuôi xuất chuồng rồi không thả giống trở lại, nên dẩn đến sản lượng giảm mạnh .
Sản lượng thịt lợn xuất chuồng trong năm 2019 ước đạt 4.584 tấn, giảm so với cùng kỳ năm ngoái 711 tấn (hay chỉ bằng 86,6%).
Sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng trong năm 2019 ước đạt 2.501 tấn, tăng so với cùng kỳ năm ngoái 60 tấn, hay tăng 2,5%.
Trong đó:
Sản lượng thịt gà xuất chuồng trong năm 2019 ước đạt 1.716 tấn, tăng so với cùng kỳ năm ngoái 100 tấn, hay tăng 6,19%.
* Tình hình dịch bệnh ở gia súc, gia cầm: Trong năm 2019, thời điểm đầu năm trên địa bàn huyện nhà tại Thôn Mỹ Lợi, xã Kỳ Sơn đã phát hiện 39/73 con lợn của 5 hộ gia đình mắc bệnh (4/8 lợn nái; 35/64 lợn thịt và lợn choai; 1 đực giống), trong đó đã có 24 con bị chết, giá trị thiệt hại ước 28 triệu đồng. Nguyên nhân nguồn dịch được xác định do lây truyền qua phương tiện vận chuyển (xe tải chở lợn vào tiếp xúc mua lợn thịt của các hộ dân). Do tác động của biến đổi khí hậu, vi rút LMLM gây bệnh có sự biến chủng và tăng độc lực cao nên gây bệnh ở thể quá cấp tính đã làm cho lợn bị bệnh chết rất nhanh và tỷ lệ chết cao tập trung ở lợn từ 15-20Kg, lợn con theo mẹ và dịch lây lan nhanh.
Từ ngày 22/7/2019 đến ngày 05/12/2019 trên địa bàn huyện Kỳ Anh dịch tả lợn Châu Phi diễn biến hết sức phức tạp đã có 554 con bị bệnh và tiêu hủy, trong đó 41 con Lợn nái, 506 con lợn thịt, 7 con đực giống. Lợn bị dịch bệnh và ốm, chết với các triệu chứng: lợn ốm ủ rũ, nằm, ăn ít, bỏ ăn, tiêu chảy phân loãng, tanh, sốt, da toàn thân ửng đỏ. Trung tâm Ứng dụng KHKT và Bảo vệ cây trồng vật nuôi đã cử cán bộ trực tiếp tận hộ gia đình, kiểm tra và lấy mẫu bệnh phẩm gửi Chi cục Thú y vùng III xét nghiệm, kết quả xét nghiệm phát hiện thấy vi rút gây bệnh Dịch tả lợn Châu Phi. Từ ngày 22/7/2019 đến ngày 05/12/2019 trên địa bàn huyện Kỳ Anh số lượng lợn bị bệnh và được tiêu hủy cụ thể sau đây:
Bảng tổng hợp số liệu đàn lợn bị dịch và tiêu hủy từ ngày 22/7 đến 05/12/2019
STT |
Tên đơn vị |
Số con lợn bị bệnh (con) |
Số con lợn bị tiêu hủy (con) |
Trọng lượng tiêu hủy (kg) |
1 |
Kỳ Phú |
86 |
86 |
5.355 |
2 |
Kỳ Tân |
9 |
9 |
429 |
3 |
Kỳ Tây |
10 |
10 |
453 |
4 |
Kỳ Khang |
59 |
59 |
4033 |
5 |
Kỳ Bắc |
19 |
19 |
1.123 |
6 |
Kỳ Hải |
34 |
34 |
1.781 |
7 |
Kỳ Thượng |
74 |
74 |
3.154,5 |
8 |
Kỳ Xuân |
138 |
138 |
4.535,8 |
9 |
Kỳ Phong |
2 |
2 |
663 |
10 |
Kỳ Trung |
35 |
35 |
731 |
11 |
Kỳ Giang |
48 |
48 |
3.306 |
12 |
Kỳ Văn |
10 |
10 |
641 |
13 |
Kỳ Lâm |
13 |
13 |
562 |
14 |
Kỳ Đồng |
5 |
5 |
575 |
15 |
Kỳ Châu |
12 |
12 |
500 |
|
Tổng số |
554 |
554 |
27.842,3 |
B. Lâm nghiệp .
1. Trồng rừng , chăm sóc nuôi dưỡng và bảo vệ rừng : Trong năm 2019 trên địa bàn toàn huyện bà con trồng rừng tập trung ước đạt 3.005 ha, tăng so với cùng kỳ năm ngoái 298 ha, hay tăng 11,0%. Bên cạnh đó theo lời Bác Hồ kêu gọi trồng cây gây rừng, nhà nhà trồng cây, người người trồng cây, vào dịp đầu Xuân năm mới các tổ chức, đoàn thể tổ chức phát động trồng cây đầu Xuân năm mới ước tính trong năm 2019 trồng được 675 ngàn cây phân tán các loại gồm cây lấy gỗ, cây ăn quả, cây làm bóng mát tại bãi biển các xã Kỳ Xuân, Kỳ Phú và 100% các xã đều ra quân trồng cây vào đầu xuân Kỷ Hợi 2019.
Công tác bảo vệ rừng: Trong năm 2019 công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thường xuyên, tổ chức trực gác ở các chốt và tăng cường việc kiểm tra, ngăn chăn việc vận chuyển, tàng trữ lâm sản trái phép, lấn chiếm đất rừng.
2. Khai thác : Trong năm 2019 thời tiết không thuận lợi cho việc khai thác, khối lượng gỗ khai thác rừng trồng ước khoảng 91.322 m3 giảm so với cùng kỳ năm ngoái 4.359 m3. Sản lượng củi khai thác trong năm ước đạt 78.663 ste, giảm so với cùng kỳ năm ngoái 34.397 ste. Nguyên nhân sản lượng khai thác gỗ và củi trong năm giảm là do năm 2017 trên địa bàn bị ảnh hưởng cơn bão số 10 đã làm cho cây đổ nên bà con thu hoạch vào giai đoạn cuối năm, sang năm 2018, 2019 diện tích khai thác giảm, dẫn đến sản lượng gỗ khai thác giảm do chủ yếu là trồng.
3. Thiệt hại về rừng: Trong năm 2019 đã xãy ra 18 điểm phát lữa. Đặc biệt có 4 vụ cháy rừng, cả 4 vụ nêu trên là rừng tự nhiên, ước diện tích rừng bị cháy là 85 ha, trong đó diện tích rừng bị thiệt hại là 5,3 ha..
C. Thuỷ hải sản .
1. Thủy sản nuôi trồng: Trong năm 2019 diện tích nuôi trồng thủy sản các loại mặt nước đạt 710,4 ha, giảm so với cùng kỳ năm ngoái 24,2 ha, (hay chỉ bằng 96,7%). Chia ra cá 268,4 ha, tôm 425ha.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong năm 2019 ước đạt khoảng 585,6 tấn, giảm so với cùng kỳ năm ngoái 98,6 tấn.
2. Về khai thác: Trong năm 2019 sản lượng hải, thủy sản khai thác ước đạt 2.383,9 tấn tăng so với cùng kỳ năm ngoái 165,4 tấn hay tăng 7,45%.
Trong đó:
Sản lượng hải sản ước đạt 2.270,7 tấn tăng so với cùng kỳ năm ngoái 170,3 tấn hay tăng 8,1%; trong đó: Cá 1.833,4 tấn tăng 136,5 tấn so với cùng kỳ năm ngoái, hay tăng 8%. Tôm 20,1 tấn tăng so với cùng kỳ năm ngoái 1,2 tấn; các loại hải sản khác 417,2 tấn tăng 32,6 tấn so với cùng kỳ năm ngoái.
Khai thác thủy sản nội địa đạt 113,2 tấn giảm 4,9 tấn so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó: Cá 54,3 tấn giảm 7,7 tấn so với cùng kỳ năm ngoái.
* Tình hình dịch bệnh: Trong năm 2019, thủy sản nuôi trồng nước lợ tính đến ngày 04/6/2019 tại các xã Kỳ Thọ, Kỳ Thư, Kỳ Hải đã xãy ra dịch bệnh ở Tôm có 32 hộ tôm bị chết diện tích thiệt hại 27,88 ha, sau khi phát hiện tôm có triệu chứng: tôm bỏ ăn, lờ đờ, tấp bờ và chết, sau khi chết tôm có dấu hiệu đỏ thân và dưới vỏ đầu ngực có các đốm trắng nhỏ. Trung tâm ƯDKHKT và BVCTVN huyện đã báo cáo với Phòng NN & PTNT và Chi cục Chăn nuôi - Thú y, đồng thời tiến hành lấy mẫu gửi đi xét nghiệm ở Cơ quan Thú y Vùng III, kết quả gửi về âm tính với các bệnh Đốm trắng và Hoại tử gan tụy cấp.
Trên đây là báo cáo tình hình về sản xuất ngành Nông, lâm, thủy sản năm 2019 trên địa bàn huyện Kỳ Anh./.
Chi cục Thống kê huyện Kỳ Anh